img
Thông báo
Sắp bắt đầu năm học mới, lớp hiện tại của bạn đang là lớp {{gradeId}}, bạn có muốn thay đổi lớp không?
img

Soạn bài Viết bài văn thuyết minh về quy tắc hoặc luật lệ trong trò chơi hay hoạt động| Văn 7 tập 2 kết nối tri thức

Tác giả Hoàng Uyên 09:33 17/06/2024 1,151 Tag Lớp 7

Những trò chơi dân gian hay những hoạt động tập thể là những thứ không thể thiếu trong các lễ hội hoặc những dịp đặc biệt bởi chúng có thể giúp kết nối con người với nhau. Để tìm hiểu kỹ hơn về chủ đề này, VUIHOC đã giúp các em Soạn bài Viết bài văn thuyết minh về quy tắc hoặc luật lệ trong trò chơi hay hoạt động| Văn 7 tập 2 kết nối tri thức.

Soạn bài Viết bài văn thuyết minh về quy tắc hoặc luật lệ trong trò chơi hay hoạt động| Văn 7 tập 2 kết nối tri thức
Mục lục bài viết
{{ section?.element?.title }}
{{ item?.title }}
Mục lục bài viết x
{{section?.element?.title}}
{{item?.title}}

1. Soạn bài Viết bài văn thuyết minh về quy tắc hoặc luật lệ trong trò chơi hay hoạt động: Trò chơi bịt mắt bắt dê

Bịt mắt bắt dê là một trò chơi dân gian rất phổ biến. Trò chơi này chủ yếu dành cho trẻ em từ độ tuổi sáu đến mười lăm tuổi, nên cái tên cùng với cách chơi cũng khá giản đơn. Tùy từng địa phương mà biến thể của trò chơi này cũng có một chút thay đổi khác nhau. Đây không phải là trò chơi chỉ dành cho hai người mà là trò chơi dành cho cả một 1 tập thể cùng tham gia. Ngoài việc vui đùa và rèn luyện thân thể, thì trò chơi bịt mắt bắt dê còn thể hiện được sự khát khao chiến thắng tiềm ẩn ở trong mỗi đứa trẻ.

Trò chơi bịt mắt bắt dê được xảy ra trên một sân cỏ, người chơi sẽ vây xung quanh để tạo thành một vòng tròn. Một người xung phong để cho mọi người bịt mắt lại bằng một chiếc khăn và không được phép nhìn thấy, những người còn lại sẽ đứng thành một vòng tròn xung quanh người bị bịt mắt. Mọi người chạy xung quanh người bị bịt mắt cho đến khi nào người đó hô “bắt đầu” hoặc “đứng lại” thì tất cả mọi người chơi phải đứng lại và không được di chuyển nữa. Lúc này người bị bịt mắt mới bắt đầu lần đi xung quanh để bắt được người nào đó, mọi người thì cố gắng tránh để không bị bắt và tạo ra nhiều tiếng động để có thể đánh lạc hướng. Đến khi ai đó bị bắt và người bị bịt mắt mà đoán đúng tên thì người đó sẽ phải ra “bắt dê”, nếu đoán sai thì lại bị bịt mắt lại và làm tiếp. Có ai đó muốn ra chơi cùng thì sẽ phải vào làm luôn, người đang bị bịt mắt lúc bấy giờ được ra ngoài hoặc là phải oẳn tù tì để xem ai thắng. Kết thúc mỗi cuộc chơi là một bầu không khí sôi động và rạo rực tinh thần đấu tranh đem đến cho người tham dự sự phấn khích với đầy ắp tiếng cười vui vẻ.

Bịt mắt bắt dê thể hiện được tính an toàn và gần gũi với con người Việt Nam cùng với lợi ích cho việc phát triển thể chất cũng như trí tuệ của trẻ em. Để chơi được trò chơi này thì người chơi không những rèn luyện được thể chất mà còn phải tăng thêm được kỹ năng phán đoán, định hướng của mình để có thể đảm bảo được sự chính xác, phản ứng linh hoạt nhanh nhẹn và hoạt bát trong mỗi lần chơi. Không chỉ là trò chơi dành cho trẻ con mà bịt mắt bắt dê còn thu hút được rất nhiều người lớn tham gia và có mặt ở những dịp Tết và Lễ hội quan trọng của người Việt Nam trong rất nhiều năm. Thành công của trò chơi này mang đến chính là bầu không khí sôi động và rạo rực tinh thần đấu tranh đã mang đến cho người tham dự sự phấn khích và tiếng cười sau khi kết thúc trò chơi.

Bên cạnh việc thể hiện sâu sắc nét đặc trưng ở trong văn hóa tín ngưỡng mỗi nơi, bịt mắt bắt dê còn giúp cho người chơi rèn luyện được sức khỏe, sự dẻo dai ở trong đời sống sinh hoạt. Tất cả hiện ra như một bức tranh tươi đẹp và sinh động của cuộc sống. Những điệu nhảy mềm mại, bước chạy dẻo dai cùng những nụ cười sảng khoái như những cánh diều bay nhè nhẹ ở trên cao như đưa văn hóa Việt Nam đi đến khắp những vùng miền đất nước.

Ngày nay, khi xã hội đang ngày càng phát triển với sự hỗ trợ của công nghệ hiện đại cũng chính là lúc các trò chơi dân gian đang ngày càng bị mai một và quên lãng. Trẻ em của một xã hội công nghiệp, chỉ quen thuộc với máy móc, điện tử và không có thời gian để chơi đó chính là một thiệt thòi. Trẻ em ngày nay đã không còn cơ hội được làm quen và tham gia chơi những trò chơi dân gian của thiếu nhi ở thuở trước. Vì thế mà bịt mắt bắt dê đã không còn được nhiều người biết tới nữa.

Bịt mắt bắt dê không đơn thuần là một trò chơi cho trẻ con mà nó chứa đựng cả một nền văn hóa dân tộc Việt Nam vô cùng độc đáo và giàu bản sắc. Bịt mắt bắt dê không chỉ nâng cánh ước mơ cho tâm hồn của trẻ, giúp trẻ phát triển được khả năng tư duy, sáng tạo, sự khéo léo và nhanh nhẹn mà còn giúp cho các em hiểu thêm về tình bạn, tình yêu gia đình, yêu quê hương, đất nước.

2. Soạn bài Viết bài văn thuyết minh về quy tắc hoặc luật lệ trong trò chơi hay hoạt động: Trò chơi nhảy bao bố

Trong hệ thống những trò chơi dân gian của ông cha ta xưa đã có rất nhiều trò chơi hay và thú vị, được kế thừa, phát triển cho đến tận ngày nay, và nhiều trò chơi đã vượt qua được giới hạn của một trò chơi dân gian mà trở thành một bộ môn nghệ thuật thực thụ. Một trong số ấy chính là trò chơi dân gian nhảy bao bố. Đây là một trò chơi đã có từ rất lâu đời và cho đến ngày nay vẫn được rất nhiều người yêu thích và lựa chọn để chơi, vì mức độ ảnh hưởng của trò chơi này tới quần chúng khá lớn nên hàng năm nhiều đơn vị đã lựa chọn nhảy bao bố là một trong những trò chơi để thi đấu, bởi có số lượng người đông đảo yêu thích bộ môn này.

Để giúp trẻ có thể cân bằng được giữa học và chơi, nhiều nơi hiện nay thường đưa những trò chơi dân gian vào trong hoạt động tập thể. Một trong số những trò chơi được yêu thích nhất phải kể tới trò chơi "Nhảy bao bố", một trò chơi vừa giúp cho người chơi tăng khả năng vận động và rèn luyện sức khỏe tạo không khí vui chơi sôi nổi vừa để góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc. Đây là một trò chơi dân gian có từ lâu đời, phổ biến trong những trò chơi sinh hoạt tập thể, phù hợp cho mọi lứa tuổi.

Trước khi đến với cách chơi, cùng tìm hiểu qua trước khi chơi cần phải chuẩn bị những gì, trò chơi này có thể phù hợp với mọi lứa tuổi, mọi giới tính, không phân biệt là nam hay nữ, không giới hạn về số lượng người chơi. Nếu số lượng người chơi đông có thể được chia thành nhiều nhóm khác nhau, mỗi nhóm có từ 5-7 người. Tối thiểu phải có 2 người trở lên mới có thể tổ chức được trò chơi.

Để trò chơi diễn ra vui vẻ và thuận lợi, ban tổ chức nên lựa chọn những nơi có diện tích tương đối rộng và bằng phẳng, không có cản trở hay nguy hiểm nào như là sân chơi, sân khu tập thể, …Khi chơi cần phải chuẩn bị số lượng bao bố tương đương với số đội chơi và cần chuẩn bị phấn để kẻ vạch xuất phát và vạch đích.

Ban tổ chức/ trọng tài sẽ kẻ những ô hàng dọc, mỗi đường kẻ cách nhau một khoảng 1m, số lượng đường kẻ nhiều hơn số đội chơi 1 đường. Kẻ một vạch đích và vạch xuất phát cách nhau một khoảng 10m. Tùy thuộc vào sức khỏe và độ tuổi của người chơi mà có thể bố trí quãng đường chơi với độ dài ngắn khác nhau. Sau khi chuẩn bị xong xuôi, thành viên của các đội chơi sẽ đứng thành hàng dọc phía trước ô xuất phát của đội mình. Người đứng đầu của mỗi đội sẽ đứng sẵn vào trong bao bố đã được phát trước đó, tay giữ chặt vào miệng bao.

Khi nghe thấy hiệu lệnh từ phía trọng tài, người đứng đầu các đội sẽ nhanh chóng nắm chặt vào miệng bao và dùng lực để bắt đầu bật nhảy. Người chơi sẽ phải nhảy tới vạch đích một cách nhanh nhất rồi sau đó quay trở lại vạch xuất phát, đưa lại bao cho người chơi thứ hai. Người thứ hai lại tiếp tục thực hiện theo người đầu tiên, lần lượt như vậy cho đến người chơi cuối cùng. Kết thúc trò chơi, đội nào về đích trước, ít bị trừ điểm do phạm quy hơn sẽ thắng cuộc.

Trong quá trình chơi, đội chơi nào nhảy trước lúc có hiệu lệnh xuất phát, chưa nhảy tới nơi quy định, nhảy chưa đến đích mà đã bỏ bao ra thì cũng bị tính là phạm luật và có thể bị loại khỏi cuộc chơi. Khi người chơi trước của đội nào chưa chạy tới vạch tiếp sức mà người chơi tiếp theo của đội ấy đã nhảy thì sẽ bị tính là phạm quy. Khi nhảy, người chơi nào bị ngã cần phải nhanh chóng đứng dậy, nhảy tiếp để có thể hoàn thành phần thi của mình, không được phép bỏ cuộc giữa chừng do còn ảnh hưởng đến những người phía sau. Người chơi nào nhảy sang hàng dọc của đội bạn cũng bị tính là phạm quy. Đội thắng cuộc là đội hoàn thành được phần thi của mình một cách nhanh nhất và ít lần phạm quy nhất.

Việc khó nhất khi nhảy bao bố là cần phải giữ thăng bằng vì rất dễ bị vấp ngã khi cố gắng nhảy nhanh để vượt qua được đối thủ. Vận động viên nào bị ngã trong lúc thi thì nhanh chóng đứng dậy nhảy tiếp phần thi của mình. Ngoài ra cần phải lưu ý về tính an toàn của trò chơi, người chơi cần được hướng dẫn trước về cách chơi với thể lệ trò chơi, cũng như tính an toàn trước khi chơi để tránh việc gặp phải tai nạn đáng tiếc.

Ngoài cách nhảy Bao bố đơn như ở trên, bạn có thể biến tấu cách chơi Nhảy bao bố bằng cách tổ chức nhảy đôi. Về điều lệ, cách chơi cũng tương tự, chỉ cần bổ sung thêm 1 chiếc bao bố với kích thước lớn hơn đồng thời chia hai người chơi tham gia chơi 1 lần ở trong 1 bao bố, thay vì 1 người chơi. Độ khó của nhảy đôi tất nhiên sẽ hơn nhiều lần so với Nhảy đơn, giúp tăng thêm phần thú vị của trò chơi.

Nhảy bao bố là một trò chơi dân gian có từ lâu đời, trải qua bao thế hệ nó vẫn được người Việt Nam hiện đại rất yêu thích, kế thừa, thậm chí đưa nó phát triển từ một trò chơi dân gian thành một bộ môn thi đấu được rất nhiều người yêu thích tham gia, bởi vì nó đề cao tính cộng đồng, tính gắn kết giữa con người với con người chứ không đơn giản là một trò chơi với mục đích giải trí.

3. Soạn bài Viết bài văn thuyết minh về quy tắc hoặc luật lệ trong trò chơi hay hoạt động: Trò chơi ô ăn quan

Ô ăn quan đã có ở Việt Nam đã có từ rất lâu đời, có thể nó được lấy cảm hứng từ những cánh đồng lúa nước tại nơi đây. Những câu chuyện được lưu truyền về Mạc Hiển Tích (chưa rõ năm sinh và năm mất), đỗ Trạng nguyên vào năm 1086 nói rằng ông đã có một tác phẩm bàn về những phép tính trong trò chơi Ô ăn quan và đề cập tới số ẩn (số âm) của ô trống xuất hiện trong khi chơi.

Ô ăn quan đã từng được phổ biến ở khắp ba miền Bắc, Trung, Nam của Việt nam nhưng những năm gần đây chỉ còn được khá ít trẻ em chơi. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam có trưng bày cũng như giới thiệu và hướng dẫn trò chơi này.

Theo các nhà nghiên cứu, ô ăn quan thuộc họ trò chơi mancala, có tiếng Ả Rập là manqala hay minqala (khi phát âm, trọng âm sẽ rơi vào âm tiết đầu ở Syria và âm tiết thứ hai ở tiếng Ai Cập) có nguồn gốc từ động từ naqala có ý nghĩa là di chuyển. Bàn chơi mancala đã hiện diện tại Ai Cập từ thời kỳ Đế chế (khoảng thời gian 1580 – 1150 TCN). Tuy nhiên còn một khoảng trống giữa lần xuất hiện đó với sự tồn tại của mancala tại Ceylon (Srilanka) những năm đầu Công nguyên và ở Ả Rập vào trước thời Muhammad. Tuy nhiên có những dấu hiệu để nhận định rằng một vài dạng mancala lan truyền từ phía Nam Ả Rập hay vùng cực Nam của biển Đỏ qua eo biển Bab El Mandeb sang bờ đối diện ở châu Phi rồi từ đó xâm nhập vào lục địa này. Trong những giai đoạn phía sau, những tín đồ Hồi giáo đã phổ biến mancala sang các miền đất khác cùng với sự mở rộng của tôn giáo cùng văn hoá.

Bàn chơi: bàn chơi Ô ăn quan được kẻ trên một mặt bằng tương đối phẳng với kích thước linh hoạt miễn là có khả năng chia ra đủ số ô cần thiết để chứa quân đồng thời không quá lớn để có thể thuận tiện cho việc di chuyển quân, vì vậy có thể được tạo ra trên nền đất, vỉa hè hoặc trên miếng gỗ phẳng…. Bàn chơi được kẻ thành một hình chữ nhật rồi chia hình chữ nhật ấy thành mười ô vuông, mỗi bên sẽ có năm ô đối xứng nhau. Ở hai cạnh ngắn hơn của hình chữ nhật, kẻ hai ô hình bán nguyệt hay hình vòng cung hướng về phía ngoài. Các ô hình vuông gọi là ô dân và hai ô hình bán nguyệt hoặc vòng cung được gọi là ô quan.

Quân chơi: bao gồm hai loại quan và dân, được làm hoặc thu thập từ rất nhiều chất liệu có hình thể ổn định và kích thước vừa đủ để người chơi có thể cầm, nắm nhiều quân chỉ bằng một bàn tay khi chơi và trọng lượng hợp lý để khỏi chịu ảnh hưởng của gió. Quan có kích thước lớn hơn dân đáng kể để dễ phân biệt với nhau. Quân chơi có thể là những viên sỏi, đá, gạch, hạt của một số loại quả… hoặc được sản xuất công nghiệp từ những vật liệu cứng và phổ biến nhất là nhựa. Số lượng quan luôn là 2 còn số lượng dân có sẽ tùy theo luật chơi nhưng phổ biến nhất sẽ là 50.

Bố trí quân chơi: quan được đặt vào trong hai ô hình bán nguyệt hoặc cánh cung, mỗi ô có một quân, dân được bố trí vào những ô vuông với số quân đều nhau, mỗi ô có 5 dân. Trường hợp không muốn hay không thể tìm kiếm được quan phù hợp thì có thể thay quan bằng việc đặt số lượng dân quy đổi vào ô quan. Số lượng thường bao gồm hai người chơi, mỗi người sẽ ngồi ở phía ngoài cạnh dài hơn của hình chữ nhật và những ô vuông bên nào thuộc về quyền kiểm soát của người chơi ngồi bên đó.

Mục tiêu cần đạt phải được để giành chiến thắng: người thắng cuộc trong trò chơi này chính là người mà khi cuộc chơi kết thúc phải có tổng số dân quy đổi nhiều hơn. Tùy theo luật chơi ở từng địa phương hoặc thỏa thuận giữa hai người chơi nhưng phổ biến nhất là 1 quan được quy đổi thành 10 dân hoặc 5 dân. Di chuyển quân: từng người chơi khi đến lượt mình sẽ di chuyển dân theo những phương án để có thể ăn được càng nhiều dân và quan của đối phương hơn thì tốt. Người thực hiện lượt đi đầu tiên thường được xác định bằng việc oẳn tù tì hay thỏa thuận. Khi đến lượt, người chơi sẽ sử dụng tất cả số quân trong một ô có quân bất kỳ do người đấy chọn trong số 5 ô vuông thuộc quyền kiểm soát của mình để lần lượt rải vào từng ô, mỗi ô có 1 quân, bắt đầu từ ô gần nhất và có thể rải ngược hoặc xuôi chiều kim đồng hồ tùy ý. Khi rải hết số quân cuối cùng, tùy tình huống mà người chơi sẽ phải xử lý tiếp như dưới đây:

Nếu liền sau đó là một ô vuông có chứa quân thì tiếp tục sử dụng tất cả số quân ấy để rải tiếp theo chiều đã chọn. Nếu liền sau đó là một ô trống (không phân biệt là ô quan hay ô dân) rồi đến một ô có chứa quân thì người chơi sẽ được ăn hết số quân trong ô đó. Số quân bị ăn sẽ được loại ra khỏi bàn chơi để cho người chơi tính điểm khi kết thúc. Nếu liền sau ô có quân đã bị ăn lại là một ô trống nữa rồi đến một ô có quân nữa thì người chơi có quyền ăn tiếp cả quân trong ô này … Do đó trong cuộc chơi có thể có phương án rải quân làm cho người chơi ăn được toàn bộ số quân trên bàn chơi chỉ trong một lượt chơi của mình. Trường hợp liền sau ô đã bị ăn lại là một ô vuông chứa quân nữa thì người chơi lại tiếp tục được sử dụng số quân đó để rải. Một ô có nhiều dân thường thì được trẻ em gọi là ô nhà giàu, rất nhiều dân sẽ gọi là giàu sụ. Người chơi có thể bằng kinh nghiệm hay tính toán phương án nhằm nuôi ô nhà giàu rồi mới ăn để có được nhiều điểm và có cảm giác thích thú.

Nếu liền sau đó là ô quan bao gồm quân hoặc 2 ô trống trở lên thì người chơi sẽ bị mất lượt và quyền đi tiếp thuộc về đối phương. Trường hợp tới lượt đi nhưng cả 5 ô vuông thuộc quyền kiểm soát của người chơi đều không có dân thì người ấy sẽ phải sử dụng 5 dân đã ăn được của mình để đặt vào mỗi ô 1 dân để có thể tiếp tục thực hiện việc di chuyển quân. Nếu người chơi không có đủ 5 dân thì phải vay của đối phương sau đó trả lại khi tính điểm.

Cuộc chơi sẽ kết thúc khi toàn bộ số dân và quan ở hai ô quan đã bị ăn hết. Trường hợp hai ô quan đã bị ăn hết nhưng vẫn còn có dân thì quân trong những hình vuông phía bên nào coi như thuộc về quyền sở hữu của người chơi bên ấy; tình huống này được gọi là hết quan, tàn dân, thu quân, kéo về hoặc hết quan, tàn dân, thu quân, bán ruộng. Ô quan có ít dân (có số dân ít hơn 5 phổ biến được coi là ít) gọi là quan non và để cuộc chơi không có kết thúc sớm cho tăng phần thú vị, luật chơi có thể quy định rằng không được ăn quan non, nếu rơi vào tình huống ấy sẽ bị mất lượt.

Ô ăn quan rất thú vị, dễ chơi đã từng là trò chơi mỗi ngày của trẻ em Việt Nam. Chỉ với một khoảng sân nho nhỏ cùng những viên sỏi, gạch, đá là các em nhỏ đã có thể tự vui chơi.

Khóa học DUO cung cấp cho các em nền tảng kiến thức vững chắc, bứt phá điểm 9+ trong mọi bài kiểm tra trên lớp.

3. Soạn bài Viết bài văn thuyết minh về quy tắc hoặc luật lệ trong trò chơi hay hoạt động: Trò chơi pháo đất

Việt Nam là một đất nước giàu truyền thống văn hóa với những giá trị đời sống tinh thần vô cùng đa dạng phong phú. Trong đó, những trò chơi dân gian cũng được xem như là những nét đẹp văn hóa hình thành bản sắc cho dân tộc Việt Nam. Một trong những trò chơi thú vị và phổ biến ở đất nước ta là trò chơi pháo đất.

Pháo đất là một trong những trò chơi dân gian được nhiều em nhỏ vùng nông thôn yêu thích và chơi nhiều, nhất là vào dịp lễ tết cận kề. Tương truyền trò chơi này được bắt nguồn từ trận đánh sông Bạch Đằng, con voi của Trần Hưng Đạo đã bị sa lầy tại khúc sông Hóa (Thái Bình). Nhân dân vùng này đã sử dụng đất ném xuống để cho voi thoát lên. Từ đó để ghi nhớ đến sự kiện này, nhân dân thường hay mở hội thi pháo đất và hội thi vẫn được giữ gìn cho đến ngày nay.

Độ tuổi để chơi được trò chơi pháo đất thường là các bạn học tiểu học trở lên. Ở các lễ hội thì sẽ chọn ra những thanh niên trai tráng hoặc những người có nhiều kinh nghiệm trong việc nặn pháo đất để tham gia. Đây là trò chơi tập thể cho nên số lượng người chơi là không giới hạn, tuy nhiên khi tổ chức ra thành cuộc thi thì thường sẽ có nhiều đội chơi, mỗi đội có từ 10 đến 20 người chơi.

Về không gian tổ chức trò chơi, trò chơi pháo đất cần tới một không gian rộng rãi, càng bằng phẳng thì càng tốt vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới âm thanh to nhỏ của pháo đất. Một số địa điểm thường chơi đó là sân kho, sân đình,... Pháo đất thường được làm từ đất với độ quánh cao như đất sét, đất thịt,...và có dạng giống hình bầu dục có thành dày hơn đáy và có kích thước linh hoạt phụ thuộc vào lượng đất mà người chơi có thể kiếm được.

Tại các hội thi, pháo đất được làm ra khá to với cái tên là mâm pháo vì nó được tạo ra từ 20-50kg đất sét (hoặc đất thịt). Khi chơi cần nắm rõ kỹ thuật làm pháo đất. Điều quan trọng trong làm pháo đất đó là đòi hỏi sự tập trung cao độ, tỉ mỉ và cẩn trọng. Đất làm pháo chất lượng là loại đất sét màu xám chì, có độ dẻo cao và ít dính tay, chân. Sau khi đã có đất thô rồi, cần phải phơi khô rồi đập nhỏ và giã lá gáo, lọc lấy nước để có thể nhào đất cho thật dẻo. Nước lá gáo được sử dụng nhằm làm khử mùi tanh hôi và giúp màu của đất đẹp hơn. Cuối cùng, đất sẽ được nhặt hết xơ, sạn, đưa qua một miếng vải lọc để loại tạp chất, cát sỏ. Quá trình lọc đất càng kỹ càng thì pháo làm càng không có vết nứt và có độ mịn càng cao.

Để làm pháo đất nổ được to nhất thì cũng đòi hỏi người chơi phải thuần thục kỹ năng úp pháo. Để pháo nổ được, người cầm pháo phải cho đáy pháo tiếp xúc được với lòng bàn tay sau đó úp mạnh xuống sân chơi sao cho vành pháo tiếp xúc đều với bề mặt của sân chơi. Khi làm như vậy thì áp suất cao của không khí ở trong lòng pháo khi bị nén sẽ phá vỡ đáy của nó hình thành nên tiếng nổ.

Sau khi hiệu lệnh bắt đầu, các đội chơi sẽ trình diễn những kỹ năng làm pháo của mình. Đầu tiên sẽ sử dụng ngón tay cái làm trụ, ngón giữa xoay rồi sử dụng tay còn lại vừa giữ lại vừa vuốt tạo thân pháo hình bầu dục, vừa vặn và vừa vuốt mép cho nhẵn, phẳng. Phần mẹ hoàn thành xong sẽ làm tiếp tới phần con và đòi hỏi kỹ thuật cao hơn. Dùng con trỏ để làm cữ, tay kia vừa bấm đất để tạo ra được ra hình con rắn. Phần này có hông pháo to và càng ra ngoài thì lại càng thon và nhỏ dần. Khi pháo được làm xong sẽ có hiệu lệnh và người được chọn sẽ quăng pháo vào vị trí. Có thể có thêm 2-3 người hộ tống đỡ pháo lên tay giúp cho người quăng. Khi pháo rơi gây ra tiếng nổ và con pháo thì bung ra. Trọng tài sẽ đo độ dài của con pháo để quy đổi ra điểm. Phần thưởng của trò chơi thường vô cùng đơn giản và mang giá trị tinh thần nhiều hơn. Tuy nhiên người được giải cao sẽ được ca ngợi tên tuổi về kỹ năng làm pháo đất bởi khâu làm pháo đất đòi hỏi người làm cần phải thuần thục, tỉ mỉ, người quăng pháo phải quăng một cách thật thuần thục và chính xác.

Sinh hoạt văn hóa đã, đang và sẽ ảnh hưởng vô cùng to lớn cũng như mang lại niềm vui và giá trị tinh thần cho con người Việt Nam ta. Chúng ta hãy giữ gìn và phát huy những nét đẹp của trò chơi pháo đất nói riêng và những trò chơi dân gian khác nói chung để đất nước Việt Nam ta không chỉ phát triển hội nhập mà vẫn giữ gìn được đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.

>> Xem thêm: Soạn văn 7 kết nối tri thức 

4. Soạn bài Viết bài văn thuyết minh về quy tắc hoặc luật lệ trong trò chơi hay hoạt động: Trò chơi thi thả diều

Chẳng biết có từ lúc nào mà những trò chơi dân gian cứ thế dần dần rồi dần dần trở thành những trò chơi không thể nào thiếu được đối với tất cả những đứa trẻ không chỉ ở thôn quê mà còn ở trên thành thị nữa. Những trò chơi dân gian không phải chỉ dành cho trẻ em mà nó còn dành cho tất cả mọi lứa tuổi. Nói đến những trò chơi dân gian ta không thể nào không nhắc tới một trò chơi gắn liền với chúng ta chính là trò chơi thả diều.

Diều được làm từ nhiều loại chất liệu khác nhau như bằng giấy, vải hoặc bằng nilon. Nhưng được ưa chuộng nhất đó là nilon bởi vì bằng vật liệu này diều không những có thể làm được những màu sắc và hình dạng rất đẹp mà còn rất bền sử dụng được trong thời gian dài. Tùy vào màu sắc và hình dạng ta có thể lựa chọn rất nhiều loại diều với những hình dạng phong phú, người chơi có thể lựa chọn được tùy vào ý thích của mình. Đó là đối với những loại diều sử dụng để sản xuất bán cho người chơi không thể chuẩn bị được hoặc không làm được. Ưu điểm của những loại diều đó chính là mẫu mã rất đẹp lại còn phong phú đa dạng và hợp mắt người chơi. Nhưng đối với những đứa trẻ ở quê thì lựa chọn số một vẫn là diều được làm bằng giấy. Đối với loại diều này thì chất liệu làm nên rất đơn giản hợp với môi trường và lại sẵn có. Các em có thể tận dụng toàn bộ giấy vở đã không sử dụng nữa để làm. Đối với những em nhỏ ở quê thì diều giấy sẽ không thể thiếu được mỗi khi mùa hè đến. Những cánh diều giấy nhẹ nhàng vút cao lên tới tận mây xanh khiến cho chúng ta như đang được bay cao lên cùng diều cùng với gió mây thật thú vị làm sao.

Thả diều là một trò chơi dân gian dựa theo sức nâng của gió bởi thế để thực hiện được trò chơi này trước tiên chúng ta cần phải chọn ra được địa điểm thích hợp.

Đó là một bãi đất rộng thoáng và không vướng cây cối hay vật chắn nào đó ở xa lối đi và phải có gió nhẹ. Và chúng ta cũng đừng quên những người bạn để có thể cùng nhau thả diều thì mới vui. Những cánh diều thi nhau bay lên không chừng sẽ tạo nên cho chúng ta những cảm giác thăng hoa vô cùng sảng khoái. Khi có gió thả diều thì một người cầm diều một người sẽ thả dây hoặc chúng ta có thể làm cả hai việc đấy được mà không cần đến ai khác. Khi thả diều ta cần chọn đúng hướng gió, khi có gió ta thả diều thật nhẹ và thật cân.

Cánh diều thường có hình vầng trăng hoặc hình lưỡi liềm hay còn được gọi là diều quạ. Khung diều thì thường được làm từ cật tre bánh tẻ chuốt tròn sau đó nối với nhau. Khung diều là một xương sống được làm bằng tre cứng to bản to nhô ra. Hai bên cánh diều cong lên tạo thành một khung diều hình lưỡi liềm.

Chiều cong của cánh diều phải được làm cân đối, khung diều phải thật chắc chắn và nhẹ. Diều được làm bằng giấy bản, bồi thành nhiều lớp bởi hồ dán. Sáo được xâu lại bằng một thanh tre đặt chéo góc ước chừng khoảng ba mươi độ với xương sống diều. Sáo thường được làm bằng ống nứa, chia ra làm hai khoang, đầu gắn nắp hình vòm xẻ rãnh để cho gió lùa vào tạo nên âm thanh. Diều sáo trông đơn giản nhưng phải thật khéo tay mới làm được. Ngày trước chưa có loại dây dù và nilon nên dây neo thường là dây mây, sợi nhỏ được đập dập và xoắn lại rồi thắt nối thành sợi dây dài khoảng dăm bảy trăm mét. Chẳng may dây neo mà bị đứt, cánh diều theo gió cuốn xa, thật xa, mang theo cả những niềm tiếc nuối của người thả diều. Ngày nay, trước sự phát triển của nhịp sống hiện đại, nhiều nhà máy, các dự án khu công nghiệp và dịch vụ thi nhau mọc lên. Những không gian thoáng đãng và lộng gió ở các vùng nông thôn cũng đang dần bị thu hẹp, thú chơi thả diều cũng vì vậy mà bị mai một. Bên cạnh đó, sự lấn át của những phương tiện giải trí hiện đại như: trò chơi điện tử và internet đã khiến cho không ít các trẻ em không còn mặn mà với những cánh diều truyền thống nữa. Song cánh diều ngày xưa của tuổi thơ hồn nhiên đầy những ước vọng ngày thơ sẽ mãi vẹn nguyên trong tâm thức chẳng thể nào phai mờ.

Những con diều đã cất cánh bay lên trên trời cao, cũng mang theo một nét đẹp văn hóa dân gian mang đậm đà bản sắc dân tộc được tung cánh, chở theo bao nhiêu ước mơ của những đứa trẻ thôn quê. Cánh diều cứ thế yên bình ngắm nhìn trời đất như vậy, yên bình nhìn ngắm khung cảnh đất nước thanh bình, vẽ một nét mực ở trong bức tranh thôn dã tĩnh lặng của quê hương Việt Nam.

5. Soạn bài Viết bài văn thuyết minh về quy tắc hoặc luật lệ trong trò chơi hay hoạt động: Trò chơi cướp cờ

Chẳng biết có từ thuở nào mà những trò chơi dân gian cứ thế dần dần rồi dần dần trở thành những trò chơi không thể nào thiếu đối với tất cả những đứa trẻ không chỉ ở thôn quê mà còn trên thành thị nữa. Những trò chơi dân gian không phải chỉ dành cho trẻ em mà nó dành cho tất cả lứa tuổi. Nói đến những trò chơi dân gian thì ta không thể không nhắc tới một trò chơi gắn liền đối với chúng ta chính là trờ chơi cướp cờ.

Trò chơi cướp cờ luyện cho trẻ được khả năng vận động nhanh, khéo léo và biết cách “lừa” đối phương để giành chiến thắng. Rèn luyện được khả năng tập trung, chú ý lắng nghe và phối hợp giữa nhiều trẻ trong một tập thể khi chơi. Vì là trò chơi dân gian và truyền miệng nên không ai biết nó đã có từ bao giờ, ai tạo ra hoặc lấy cảm hứng từ đâu. Mọi người chơi thấy hay rồi tự chia sẻ lại với người khác mà thôi.

Đây là trò chơi dân gian không hạn chế số người chơi. Tuy nhiên, vì phải chia ra thành hai đội nên cần phải có số lượng chẵn người chơi. Mỗi đội thường có từ 3 đến 5 thành viên. Ngoài ra, cần cử ra một người khác làm vai trò là quản trò. Do là trò chơi vận động, nên để chơi cướp cờ, cần chọn không gian rộng rãi, thoáng mát và bằng phẳng. Thường là sân trường, sân thể dục hoặc sân chơi. Trước khi bắt đầu, cần lựa chọn vật làm “cờ”, đây là vật mà hai bên đội sẽ phải cạnh tranh để có thể giành được. Thực tế, có thể sử dụng cành cây, khăn đỏ hay mảnh vải… để thay thế cho vai trò của “ cờ”. Giữa sân chơi vẽ ra một vòng tròn với đường kính khoảng 20 - 25 cm. Ở giữa vòng tròn, đặt một vật để làm cờ. Ở mỗi đầu sân, kẻ ra 2 đường thẳng song song, đối xứng với nhau qua một vòng tròn, cách vòng tròn khoảng 6 tới 7m. Đây cũng là vị trí đứng của mỗi đội.

Mỗi đội sẽ đứng hàng ngang dọc theo đường đã được kẻ. Các thành viên lần lượt điểm danh từ 1 cho đến hết. Mỗi người cần phải nhớ chính xác số của mình. Quản trò đứng giữa sân chơi, đóng vai trò như người điều khiển, lần lượt hô các con số của các người chơi. Khi quản trò hô đến số nào, thành viên nào ở hai đội có số tương ứng sẽ có được quyền chạy qua vạch đến đường tròn giữa sân để giành lấy “ cờ”. Quản trò có thể được phép gọi một lúc nhiều số cùng lên. Hoặc gọi hai và ba số cùng về. Người đầu tiên cướp được “ cờ” cần phải nhanh chóng chạy về vạch xuất phát của đội mình. Người chơi còn lại phải tìm cách để đuổi theo và chạm vào người đang cầm “ cờ”. Nhưng đảm bảo chỉ được người chơi cùng số với nhau mới được chạm vào nhau. Nếu chạm được vào người đấy, điểm sẽ được cộng cho đội của người chơi đuổi theo. Còn không, để cho đội cướp cờ được về đích an toàn, đội cướp cờ sẽ giành được điểm. Quản trò tiếp tục tiến hành những lượt chơi tiếp theo. Có thể giới hạn một số lượng lượt gọi nào đó nhất định. Ví dụ: 15 lượt. Sau một số lượt nhất định, cộng điểm thắng của mỗi đội lại. Đội nào giành được nhiều điểm hơn chính là đội chiến thắng chung cuộc.

Để tránh gặp những chấn thương và mâu thuẫn khi chơi, cần phải chú ý những điều sau: Chọn địa điểm sao cho bằng phẳng, không có những vật nguy hiểm xung quanh, không chơi ở nơi có nhiều xe cộ đi qua lại. Thống nhất luật chơi trước khi chơi về số lượt chơi, cách tính điểm hay hình phạt,…

Hiện nay, có rất nhiều trò chơi dân gian đã bị thay thế bằng những trò chơi game hiện đại và cuốn hút. Thế nhưng, trò chơi cướp cờ chắc chắn vẫn luôn rất được yêu mến và giữ gìn bởi những thế hệ về sau.

6. Soạn bài Viết bài văn thuyết minh về quy tắc hoặc luật lệ trong trò chơi hay hoạt động: Trò chơi thi thổi cơm

Hàng năm, cứ tới mười rằm tháng Giêng, người dân ở làng Ngọc Tiên, xã Xuân Hồng (Xuân Trường) lại mở hội tưởng nhớ công đức Thành Hoàng làng chính là Hoàng Văn Quảng đã có công giúp cho dân làng dẹp giặc trấn biên. Hội làng ngoài phần chính lễ ra còn có tục thổi cơm thi và làm cỗ chay, trước là dâng cúng thánh thần tổ tiên, sau đó là ôn lại bước đường chinh chiến đầy gian khổ của thánh tổ cũng như cha ông những ngày đầu dấy binh trấn ải.

Tích xưa để lại, tại làng Ngọc Tiên, xã Xuân Hồng (Xuân Trường) xưa chính là vùng bãi bồi ven biển thuộc trần Sơn Nam hạ. Vào thời Hậu Lê, triều đình đã cử một vị tướng tài là Hoàng Văn Quảng về chiêu mộ quân sĩ, giúp cho dân làng Ngọc Tiên dẹp giặc trấn biên và ổn định cuộc sống. Nhờ vào tài thao lược “Chiêu binh mãi mã, tích thảo dồn lương” của ông mà nhân dân ở đây mới được hưởng cuộc sống thái bình no đủ. Năm 1743, vua Lê Cảnh Hưng mới ban sắc cho ông là Thông huyền chế cảm Linh thánh Đại vương tiên hiệu Quảng. Tri ân công đức của ông, dân làng Ngọc Tiên đã tôn ông lên làm Thành Hoàng làng, lập đền thờ và chọn ngày mười rằm tháng Giêng làm ngày chính kỵ. Vào ngày này, dân làng sẽ gác lại mọi công việc đồng áng, tập trung ra đền để làm lễ tế thánh. Con cháu sinh sống làm ăn ở xa quê đều sắp xếp công việc về với xóm làng. Tiếng chiêng, tiếng trống cùng cờ xí rợp trời, cộng đồng làng xã nhất tiên nhất đế cho ngày lễ trọng. Sau phần chính lễ, chính hội được diễn ra với tâm điểm là tục thổi cơm thi, làm cỗ chay để dâng thánh với ý nghĩa diễn lại cảnh sinh hoạt của nghĩa binh vào thời Đức Thánh tổ dấy binh trấn áp, thiếu thốn đủ bề, vừa hành quân, lại vừa lo hậu cần và phải “tích cốc phòng cơ” cho những lúc thiếu đói. Chính vì thế, tục thổi cơm thi trong hội làng Ngọc Tiên mới diễn ra theo một quy trình khép kín từ việc lấy nước, đến tạo lửa và thổi cơm làm bánh. Và đây cũng chính là nét độc đáo hấp dẫn nhất làm nên đặc trưng của hội làng Ngọc Tiên so với những vùng quê khác.

Trước ngày vào đám, tất cả những giáp đều cử người lên đền để mang dụng cụ thi đấu là bộ chõ đồ, quang gánh, nồi đồng điếu, cần trúc, bát đĩa…từ thời cổ xưa ra để lau chùi, sửa sang sao cho thật sạch sẽ, thanh tịnh. Bãi đất trước cửa đền cũng được san phẳng, đường dong ngõ xóm dọn dẹp phong quang để chuẩn bị cho ngày chính hội. Tham dự hội làng có đến 6 giáp, được chia theo đơn vị xóm. Mỗi giáp phải có đủ 14 người có giới tính nam, tuổi từ 18 trở lên, có phẩm chất đạo đức tốt và tất nhiên phải khỏe mạnh, nhanh nhẹn, gia đình toàn vẹn lại không vướng tang ma. Xưa kia, đỗ, gạo để thổi cơm, đồ xôi hay làm bánh phải được trồng riêng ở trên phần ruộng huệ điền. Quá trình trồng cấy, thu hoạch và bảo quản gạo, đỗ đều do chính tay các lão nông đảm nhận. Việc lấy nước và tạo lửa để nấu cơm cũng do nam giới làm. Phụ nữ không được phép tham gia vào bất cứ một phần việc nào của phần chính lễ và chính hội.

Để bắt đầu phần thi thổi cơm và làm cỗ chay, các giáp phải trải qua được hai phần thi địch thủy và địch hỏa. Chỉ khi có nước và lửa, thổi cơm thi mới chính thức được bắt đầu. Ở phần thi địch thủy, mỗi giáp sẽ cử ra 2 người, tay cầm một chiếc nậm nhỏ, đồng loạt chạy ra bến Cựa gà, lội ra giữa dòng sông Ninh để lấy cho đầy nậm nước mang về đổ vào nồi đáy của chõ đồ. Trong quá trình chạy rước nước, ngón tay cái của người rước nước cần phải bịt chặt miệng nậm để nước không bị sánh ra ngoài. Ai mang nước về nhanh nhất, không làm vương vãi nước ra dọc đường là người thắng cuộc. Phần thi địch hỏa được coi là phần thi gay cấn, lôi cuốn được sự chú ý và tạo tâm lý hồi hộp không chỉ đối với người dự thi và dân làng mà còn cả với những vị khách thập phương tham dự. Bởi có đạt kết quả ở phần thi này mới được tiếp tục tham gia vào vòng kế tiếp. Hơn nữa, theo quan niệm của người phương Đông thì việc tạo ra lửa trong ngày đầu xuân chính là điềm lành, mang lại nhiều may mắn, thuận lợi. Do đó, thao tác nhanh và dứt khoát, tạo lửa khéo léo và đốt cờ hiệu chính xác là trách nhiệm của mỗi người dự thi đối với nội tộc cũng như xóm làng. Mỗi giáp vào dự thi mang theo một bộ dụng cụ địch hỏa bao gồm một thanh cái đặt cố định dưới đất được làm bằng tre bánh tẻ, có đường kính khoảng 4cm, đã tách rời làm đôi để tạo kẽ hở cho mùn rơi xuống trong quá trình kéo lửa. Thanh tre khác dài và mỏng gọi là thanh con (hay thanh dao) được tạo ra bởi gốc cây tre già, sử dụng để cọ sát vào thanh cái. Bí quyết chắc thắng trong phần thi ấy là dụng cụ địch lửa phải được làm bằng cây tre chết bụi, lại phải gác gác bếp thêm 3 tháng nữa mới được đem ra sử dụng. Khi vào cuộc 12 người của 6 giáp sẽ xếp thành hàng ngang, tất cả đều nín thở, dùng 1 lực cọ xát 2 thanh tre vào với nhau tạo ra một lớp mùn mịn. Mùn cưa vón cục, gặp lực ma sát lớn sẽ tạo thành lửa. Nhưng lúc này lửa chỉ mới là 1 đốm than hồng, người kéo lửa phải khéo hà hơi để lửa có thể bén vào bùi nhùi rơm bùng lên thành một ngọn lửa lớn. Lúc này, cả sân đền mới vỡ òa trong tiếng reo hò cổ vũ của dân làng cùng du khách tham dự. Khó khăn là vậy nhưng quy định cho phần thi này chỉ được thao tác vỏn vẹn trong vòng từ 20-25 giây.

Vậy mà bằng sự nỗ lực của bản thân và sự cổ vũ nhiệt tình của bà con chòm xóm, đã có năm những chàng trai của làng Ngọc Tiên chỉ mất có 12 giây để tạo ra lửa. Vận động viên địch lửa giơ cao ngọn lửa do chính mình tạo ra, đốt cờ lệnh báo hiệu phần thi của mình đã được hoàn tất rồi cùng với dân làng rước lửa về sân nấu cỗ, châm bếp để bắt đầu phần thi làm bánh, thổi cơm trong tiếng hò reo cổ vũ vô cùng tưng bừng. Ai đã từng tham dự hội làng Ngọc Tiên, mới thấy được hết tài năng và sự khéo léo của người dân nơi đây. Người tham dự phần thi thổi cơm, phải phụ trách tất cả công việc từ đeo cần trúc lên vai, cố định niêu cơm đến giữ lửa cho cơm chín, họ vừa đi vừa nấu, theo sau là cả đoàn rước khua chiêng và gõ trống tưng bừng. Để hoàn thành tốt được phần thi này, người dân làng Ngọc Tiên đã chuẩn bị vô cùng công phu từ chiếc cần trúc treo niêu cơm tới việc làm quen với cách ước lượng sao cho đủ nước, đủ lửa và cơm phải chín nục, dẻo thơm trong thời gian đi chọn 3 vòng rước quanh sân đền bất kể tiết trời đầu xuân có mưa bụi giăng mắc, có rét đài hay rét lộc ghé qua. Cụ Nguyễn Minh Oanh thuộc vào lớp người xưa nay hiếm, đã tham gia vào hội làng từ khi còn là trai trẻ, nay lại tham gia ban bảo vệ di tích cho hay: Chỉ tính riêng việc chuẩn bị cho chiếc cần trúc treo niêu cơm cũng đã mất đẫy 3 năm.

Người ta uốn cong ngọn măng trúc khi vừa mới vượt qua khỏi mặt đất thành hình chữ S, vào nuôi dưỡng thuần hóa cho tới khi đủ độ dẻo dai, bền chắc thì đẵn xuống. Lại cho cây trúc tắm qua khói lửa, bồ hóng thêm một thời gian nữa thì mới đem vào sử dụng. Khi vào cuộc, vòng cong lớn của cần trúc được ép vào dọc sống lưng người chơi sau đó cố định lại bằng một dải lụa điều. Phần cong nhỏ vắt qua vai để treo quang sắt và cố định chiếc nồi đồng điếu phía bên trong. Hai tay cầm 2 bó đuốc hơ đáy nồi cơm để chín. Người nấu cơm phải ước lượng nên gia lửa và hãm lửa khi nào để cho cơm sôi bùng, hạt gạo ngậm no nước và chín đẫy hơi thì cơm mới nục. Đến khi cơm sôi, hai bó đuốc sẽ được dồn lại về một bên tay, tay còn lại cầm một chiếc móc vừa mở vung nồi, lại vừa quay đầu kia lại để ghế cơm. Đây cũng là chính lúc người ta nhìn hạt gạo để điều tiết được lửa sao cho cơm vừa chín đến đạt yêu cầu mà không khô, không hấy, đơm đủ 1 bát cơm lồng góp vào mâm cơm để cúng thánh. Bên cạnh cơm là món chính, mâm cỗ chay còn có 4 loại bánh khác nhau đó là bánh ống, bánh bìa, bánh giáo,  bánh phong và một bát chè đường. Mỗi loại bánh sẽ có yêu cầu kích thước, hình dáng và màu sắc khác nhau nhưng lại được làm từ nguyên liệu chung chính là gạo nếp, đỗ xanh đường kính và một quả gấc chín.

Cái khó nữa mà làng xã muốn thử thách đôi bàn tay thô ráp vốn chỉ quen với việc cày bừa, cuốc xới quanh năm của cánh nam giới là phải xếp tất cả những loại bánh, gạo đồ xôi vào chung 1 chõ, đồ 1 lửa mà xôi chín dẻo thơm, trắng bông tinh khiết, còn bánh thì chín rền, đẹp màu, vuông thành sắc cạnh, có thể để đến hàng tháng trời mà không thiu không mốc. Bốn loại bánh trên mâm cỗ chay tượng trưng cho những loại lương khô mà thánh tổ đã làm ra để giúp nghĩa quân có đủ lương thực ăn đường ngay cả khi giặc dã vào thời tiết mưa gió, lụt lội, không nổi lửa được. Sau 150 phút, mâm cỗ chay phải được hoàn tất sẽ có đủ 4 loại bánh, một bát chè đường với 1 bát cơm lồng, một cút rượu trắng, một quả bưởi và một đĩa trầu cau để dâng lên cúng thánh cầu cho quốc thái dân an, làng xã được thịnh vượng, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, vạn vật thì sinh sôi. Sau 1 tuần hương, cỗ chay của các giáp sẽ được mang ra sân đình để chấm điểm. Ban tổ chức trao giải cho cả 6 giáp tham gia, nhưng giáp nào đạt giải nhất thì sẽ được dân làng ưu tiên cắt đặt công việc trong suốt một năm. Xưa kia, mâm cỗ đạt giải nhất được dành riêng để chánh tổng đem biếu cho các tổng bạn, vừa để tỏ lòng kính trọng, hòa hảo và cũng muốn khoe mỹ tục ở tổng mình. Sau này, tan hội vào, lễ hoàn làng, cỗ xóm nào mang về lại xóm đó, chia đều cho tất cả dân làng từ cụ cao niên hay em bé còn ẵm ngửa đến những người góa bụa hay tật nguyền. Nét đẹp ấy còn lưu giữ nguyên vẹn cho đến ngày nay.

Thổi cơm thi trong lễ hội mùa xuân ở làng Ngọc Tiên, xã Xuân Hồng (Xuân Trường) là một lễ tục đẹp, mang theo đậm bản sắc dân tộc và sắc thái văn hóa làng quê. Đến nay, xã hội có nhiều thay đổi và nhịp sống vận hành cuồng nhiệt hơn, nhiều luồng văn hóa ngoại lai xuất hiện nhưng bản sắc làng quê vẫn không hề bị mai một. Văn hóa làng trở thành chất keo dính gắn kết giữa cộng đồng làng xã. Vậy nên không còn ruộng huệ điền, người dân làng Ngọc Tiên không ai bảo ai mà nhà nhà tự góp công và góp của giữ nếp làng. Tích xưa được truyền kể cho lớp lớp cháu con cùng nghe theo để được tự hào và noi gương Đức Thánh tổ. Còn kỹ thuật địch thủy, địch hỏa, uốn cần trúc, chọn tre già, thổi cơm thi,…thì đời cha truyền lại cho con trai, đời chú truyền cho cháu. Trẻ trai lên 10 ở làng Ngọc Tiên đã bắt đầu được phụ giúp công việc chuẩn bị cho hội làng, để rồi tám đến mười năm sau, con sẽ thay cha, cháu cùng chú “chung lưng đấu cật” đời đời tiếp nối và giữ gìn truyền thống cũng như bản sắc văn hóa làng quê.

7. Soạn bài Viết bài văn thuyết minh về quy tắc hoặc luật lệ trong trò chơi hay hoạt động: Trò chơi hát đối đáp 

Dân Việt ta luôn luôn tự hào về đất nước ngàn năm văn hiến, với sự pha trộn của rất nhiều nền văn hoá khác nhau. Dù phải chịu đựng ách thống trị của thực dân Pháp trong hàng nghìn năm Bắc thuộc, nền văn hóa của chúng ta vẫn đã tiếp thu được nhiều giá trị mới mẻ, song vẫn giữ được nét đặc trưng của dân tộc mình. Từ đó, đã tạo nên nhiều loại hình nghệ thuật độc đáo, mang đến giá trị vô cùng to lớn cho nền văn hóa Việt Nam.

Trong số những loại hình nghệ thuật ấy, dân ca quan họ Bắc Ninh được xem là một trong những ví dụ điển hình. Với những câu hát giao duyên dịu dàng và lắng đọng cùng ý nghĩa ân tình của xứ Bắc, quan họ Bắc Ninh đã mang đến sức lan tỏa và lay động lòng người một cách mạnh mẽ. Dân ca quan họ là một trong những điệu dân ca tiêu biểu nhất của vùng đồng bằng sông Hồng thuộc địa phận miền Bắc Việt Nam. Được hình thành từ khá lâu đời ở vùng Kinh Bắc xưa, chủ yếu ở hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh, nơi có con sông Cầu chảy ngang qua.

Theo các nhà nghiên cứu khoa học, quan họ đã có từ thế kỷ thứ XVII và được bắt nguồn từ tục kết chạ giữa bà con ở trong lối xóm. Cái tên "Quan họ" có thể được hiểu theo truyền thuyết rằng có một ông quan trong lần qua xứ Kinh Bắc, vô tình nghe thấy và lấy làm say mê những câu hát ngọt ngào của những liền anh, liền chị, những người có cùng sở thích ca hát dòng nhạc này và sau đó người ta gọi là đó một "họ". Tuy nhiên, cách giải thích ấy chỉ đúng ở một khía cạnh nào đó. Ngoài ra, còn rất nhiều cách lý giải khác cũng liên quan đến nếp sinh hoạt văn hóa cùng chế độ thời bấy giờ.

Dân ca quan họ là một hình thức trao đổi tâm tư và tình cảm giữa người nam và nữ bằng cách hát đối đáp. Họ sử dụng những câu hát vô cùng ý nhị, giọng hát mượt mà sâu lắng để thể hiện được cảm xúc trong tâm hồn mình. Thường thì những bài hát quan họ được hát vào mùa xuân hay mùa thu, khi đó, câu hát quan họ mới nhộn nhịp, tưng bừng lan rộng trong làng thôn, làm say đắm biết bao trái tim yêu nghệ thuật. Thông thường, quan họ được hát bởi những đôi nam nữ, có thể đến từ cùng một làng hay khác làng. Điểm đặc sắc của quan họ đó là mỗi người hát phải tìm lời phù hợp để có thể đối đáp, tạo thêm sự hấp dẫn và không bị nhàm chán. Các đôi nam nữ sẽ cất lên những câu hát dạt dào cảm xúc và lắng đọng tâm tình, với lời hát được lấy từ thơ hoặc ca dao trong sáng, ý nhị. Quan họ là thể loại nhạc trữ tình, vì thế cách hát và luyến láy được trau chuốt hết sức kỹ càng, bao gồm nhiều kỹ thuật sao cho âm điệu vừa vang, rền lại vừa nền, nảy, nghe hệt như rót mật vào tai, vô cùng ngọt ngào tình cảm giống như là dòng sông Cầu - "dòng sông quan họ". Hát quan họ có ba hình thức phổ biến nhất trong đó mỗi một thể loại lại có nét đặc sắc và dấu ấn riêng: hát canh, hát phục vụ lễ hội cùng với hát thi đấu giành giải.

Trang phục là một trong những điểm nhấn đặc trưng ở trong nghệ thuật quan họ. Những liền anh và liền chị thường mặc những bộ quần áo rực rỡ sắc màu làm tôn lên vẻ đẹp thanh lịch và quý phái của người Kinh Bắc. Liền anh thường mặc áo dài mỏng thẫm màu, bên trong đó là áo trắng cùng với quần lĩnh trắng, ống rộng, là phẳng phiu. Để tăng thêm vẻ đẹp truyền thống và định hình được văn hóa vùng Kinh Bắc, họ đội khăn xếp và có thể cầm theo quạt hoặc chiếc dù đen. Trang phục của liền chị thường được trang trí khá chi tiết và cầu kỳ. Họ sẽ mặc những bộ áo mớ ba mớ bảy với những màu sắc sặc sỡ như đỏ, vàng, xanh phối cùng với một chiếc thắt lưng hoa đào, chít tóc bằng khăn mỏ quạ, đầu thì đội nón quai thao trắng hoặc cầm ở tay để tăng thêm phần duyên dáng và thướt tha. Trang phục đặc biệt như vậy lại có sự kết hợp của những câu hát bay bổng, da diết và ngọt ngào đã làm tăng thêm vẻ đẹp cho những người hát giao duyên.

Quan họ là một loại hình văn hóa đặc sắc, vẫn luôn được phát triển mạnh mẽ đến ngày nay, bởi nó lưu giữ được những vẻ đẹp truyền thống xa xưa, nhưng cũng đồng thời được người tiếp nối phát triển và sáng tạo thêm ra những điều mới để giữ cho quan họ không được lạc hậu so với thời đại hiện đại. Quan họ được xem là dòng nhạc dân ca trữ tình có nguồn giai điệu vô cùng phong phú và được xem là đa dạng nhất ở Việt Nam. Tính đến thời điểm hiện tại, chúng ta vẫn giữ được khoảng 300 bài quan họ với những giai điệu khác nhau và được ghi chép thành những bản nhạc. Ngoài ra, còn rất nhiều các giai điệu không được ký âm chính thức mà chỉ mới được truyền miệng từ đời này qua đời khác. Các làn điệu quan họ truyền thống phải kể đến như Cây gạo, Đường bạn Kim Loan, La hời, và Tình tang.

Hát quan họ bao giờ cũng phải có ba chặng. Chặng mở đầu thuộc giọng lề lối, khi hát xong khoảng mười bài giọng lề lối, người hát sẽ chuyển sang giọng sổng để đi tiếp vào chặng giữa. Các bài ở chặng giữa ở giọng vặt và chặng cuối là giọng giã bạn. Làn điệu quan họ là những tiếng hát vô cùng thân tình, ngọt ngào và mềm mại. Người hát luôn trong trạng thái say mê, vui thú, và chăm chút thổi hồn vào trong từng câu chữ. Điều này khiến cho âm hưởng của toàn bài sẽ luôn vang vọng và thấm đẫm vào tâm hồn những người thưởng thức. Quan họ là thứ dân ca truyền thống rất kén người nghe, khiến ta phải trầm trồ và thán phục trước sức hút của nó.

Vào ngày 30 tháng 9 năm 2009, dân ca quan họ Bắc Ninh đã được UNESCO công nhận là một di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Đây là một tin vui, là một nguồn động lực to lớn để dân ca quan họ tiếp tục được phát triển và ghi lại những dấu ấn truyền thống tốt đẹp của dân tộc, cũng như như một nét đẹp văn hóa đặc sắc của Việt Nam. Ngày nay, cùng với sự phát triển của đất nước, quan họ không chỉ tồn tại ở trong không gian làng, xã mà nó đang dần được lan tỏa khắp mọi miền đất nước. Nó trở thành nét văn hóa đặc sắc và là niềm tự hào to lớn của người dân Việt Nam.

Dân ca quan họ Bắc Ninh là một kho tàng vô giá của dân tộc, cần phải bảo tồn, phát huy và lưu truyền cho những thế hệ sau. Chúng ta, những người con của đất nước Việt Nam, cần phải biết trân trọng và yêu quý những giá trị truyền thống tốt đẹp ấy, để chúng luôn tồn tại và không bị lãng quên giữa nhịp sống hiện đại đang rất nhộn nhịp.



 

HỌC ONLINE CÙNG GIÁO VIÊN TOP 5 TRƯỜNG ĐIỂM QUỐC GIA

Khóa học online ĐẦU TIÊN VÀ DUY NHẤT:  

⭐ Xây dựng lộ trình học cá nhân hóa, giúp con tăng 3 - 6 điểm chỉ sau 1 khóa học

⭐ Học chắc - ôn kỹ, tăng khả năng đỗ vào các trường chuyên cấp 2, cấp 3 

⭐ Chọn thầy cô, lớp, môn học theo mong muốn và thời gian biểu cá nhân 

⭐ Tương tác trực tiếp hai chiều cùng thầy cô, hỗ trợ con 24/7  

⭐ Học lý thuyết đi đôi với thực hành, kết hợp chơi và học giúp con học hiệu quả 

⭐ Công nghệ AI cảnh báo học tập tân tiến, giúp con tập trung học tập

⭐ Tặng full bộ tài liệu độc quyền trong quá trình học tập được biên soạn bởi các thầy cô TOP 5 trường điểm quốc gia

Trải nghiệm khóa học DUO hoàn toàn miễn phí ngay!!
 

 

Bài viết trên đã giúp các em tham khảo rất nhiều bài văn mẫu thuộc nhiều đề bài trong Soạn bài Viết bài văn thuyết minh về quy tắc hoặc luật lệ trong trò chơi hay hoạt động khác nhau. Ngoài bài soạn phía trên, nếu muốn tham khảo những bài soạn văn khác hoặc với những bài soạn khác ở trong môn học khác thì em đừng chần chừ mà hãy truy cập ngay vào website chính thức của VUIHOC là vuihoc.vn để có thể đăng ký cho mình khoá học nhanh chóng và được nghe giảng giải trực tiếp từ thầy cô giáo có chuyên môn và nhiệt huyết của VUIHOC nhé!

>> Mời bạn tham khảo thêm: 

Banner after post bài viết tag lớp 7
| đánh giá
Hotline: 0987810990