img
Thông báo
Sắp bắt đầu năm học mới, lớp hiện tại của bạn đang là lớp {{gradeId}}, bạn có muốn thay đổi lớp không?
img

Soạn bài Vịnh khoa thi Hương| Văn 8 tập 2 Cánh diều

Tác giả Hoàng Uyên 15:15 11/03/2024 3,105 Tag Lớp 8

Vịnh khoa thi Hương là một trong những bài thơ trào phúng tiêu biểu của Trần Tế Xương. Bài thơ đã vẽ nên bức tranh chân thực về xã hội Việt Nam cuối thế kỉ 20, với những bất công, thối nát trong chế độ thi cử và sự hám danh, hám lợi của tầng lớp sĩ tử. Hãy cùng VUIHOC tìm hiểu kĩ hơn bài thơ qua Soạn bài Vịnh khoa thi Hương| Văn 8 tập 2 Cánh diều dưới đây.

Soạn bài Vịnh khoa thi Hương| Văn 8 tập 2 Cánh diều
Mục lục bài viết
{{ section?.element?.title }}
{{ item?.title }}
Mục lục bài viết x
{{section?.element?.title}}
{{item?.title}}

1. Soạn bài Vịnh khoa thi hương: Chuẩn bị

1.1 Tìm hiểu về nhà thơ Trần Tế Xương

a) Tiểu sử:

- Nhà thơ Trần Tế Xương tức Tú Xương (1870 - 1907) tên khai sinh là Trần Duy Uyên.

- Quê quán: làng Vị Xuyên - huyện Mỹ Lộc - tỉnh Nam Định ( nay thuộc phường Vị Hoàng, thành phố Nam Định).

- Cuộc đời ngắn ngủi và nhiều gian truân:

+ Cuộc đời Tú Xương chỉ gắn liền với thi cử, tính ra có tất cả tám lần. Đó là các khoa: Bính Tuất (1886); Mậu Tý (1888); Tân Mão (1891); Giáp Ngọ (1894); Đinh Dậu (1897); Canh Tý (1900); Quý Mão (1903) và Bính Ngọ (1906).

+ Trải qua 3 lần hỏng thi, mãi đến lần thứ tư khoa Giáp Ngọ (1894) ông mới đậu tú tài, nhưng đó cũng chỉ là tú tài thiên thủ (lấy thêm).

+ Sau đó không sao lên được cử nhân, mặc dù đã khá kiên trì theo đuổi. Khoa Quý Mão (1903) Trần Tế Xương đã đổi tên thành Trần Cao Xương tưởng rằng bớt đen đủi, nhưng rồi hỏng vẫn hoàn hỏng.

b) Sự nghiệp văn học:

  •  Phong cách nghệ thuật:

- Thơ của Tế Xương có sự kết hợp hài hòa bởi các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình trong đó trữ tình là gốc.

- Bức tranh hiện thực trong thơ Tế Xương chính là một bức tranh xám xịt, dường như chỉ có đau buồn, rác rưởi, vì hiện thực thối nát của xã hội thực dân - nửa phong kiến.

- Với giọng văn châm biếm và sâu cay, thơ văn của ông đã đả kích bọn thực dân phong kiến, bọn quan lại nhưng làm tay sai cho giặc, bọn bán rẻ lương tâm chạy theo tiền bạc và bọn rởm đời lố lăng trong buổi giao thời.

  • Những tác phẩm chính, tiêu biểu:

- Tú Xương có khoảng trên 100 bài, chủ yếu là thơ Nôm, bao gồm nhiều thể thơ (thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, lục bát) và một số bài văn tế, câu đối, phú,...

- Một số tác phẩm như: Vịnh khoa thi Hương, Ông cò, Phường nhơ, Giễu người thi đỗ, Thương vợ, Văn tế sống vợ,...

1.2 Bối cảnh ra đời của tác phẩm

- Bối cánh lịch sử: Từ khoa thi Bính Tuất (1886), do thực dân Pháp đánh chiếm Hà Nội, trường thi Hương Hà Nội bị bãi bỏ. Thực dân Pháp lo sợ sự bất bình của dân chúng nên đã tổ chức thi chung trường thi Hương Hà Nội với trường Nam Định (Nam Định), gọi chung là là trường Hà - Nam.

- Vịnh khoa thi Hương được sáng tác trong thời gian Tú Xương tham dự kỳ thi Hương tại trường thi Hà – Nam. Vợ chồng viên toàn quyền Đông Dương Pôn Đu-me (Paul Doumer) và vợ chồng viên công sứ Nam Định Lơ Noóc-măng (Le Normand) có tới dự lễ xướng danh (ngày 27/12/1897).

2. Soạn bài Vịnh khoa thi hương: Đọc hiểu 

Chú ý các chi tiết miêu tả cảnh trường thi với những hình ảnh đối lập và việc sử dụng từ ngữ độc đáo trong bài thơ.

Trả lời:

Cảnh trường thi vô cùng nhốn nháo, ô hợp: Trường Nam thi lẫn với trường Hà, lôi thôi sĩ tử, ậm ọe quan trường,…

>> Xem thêm: Soạn văn 8 cánh diều

3. Soạn bài Vịnh khoa thi hương: Trả lời câu hỏi cuối bài

3.1 Câu 1 trang 43 SGK Văn 8/2 Cánh diều:

“Hãy nêu chủ đề và bố cục bài thơ Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương”.

Trả lời:

- Chủ đề của bài thơ: Bài thơ "Vịnh khoa thi Hương" của Trần Tế Xương đã phơi bày hiện thực xã hội và giáo dục suy đồi, thối nát của giai đoạn cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 (buổi đầu của xã hội thực dân nửa phong kiến) qua hình ảnh của kỳ thi Hương. Bức tranh được vẽ một cách vô cùng chân thực qua những chi tiết châm biếm, mỉa mai và đả kích sâu cay, thể hiện được tâm trạng uất ức, phẫn nộ của tác giả trước thực trạng đất nước.

- Bố cục của bài thơ:

  • Đề (2 câu đầu): Giới thiệu chung về kỳ thi Hương.

  • Thực (4 câu tiếp): Miêu tả cảnh lố lăng, hỗn tạp trong trường thi.

  • Luận (2 câu tiếp): Hình ảnh quan trường hủ bại, vô trách nhiệm.

  • Kết (2 câu cuối): Nỗi nhục mất nước và niềm hi vọng mong manh.

3.2 Câu 2 trang 43 SGK Văn 8/2 Cánh diều:

“Xác định các đối tượng trào phúng mà bài thơ hướng tới. Thái độ của tác giả đối với các đối tượng đó được thể hiện như thế nào?”

Trả lời:

- Các đối tượng trào phúng mà bài thơ Vịnh khoa thi Hương hướng tới là: quan trường (giám khảo coi thi) và sĩ tử đi thi. Thí sinh không còn giữ được vẻ nho nhã trí thức và những vị giám khảo cũng không còn vẻ nghiêm túc, đáng kính như trước nữa. Thay vào đó là cái dáng vẻ “thét loa” như ngoài chợ, mà nói thì cũng “ậm ọe” chẳng thành câu.

- Thái độ của tác giả: Tế Xương thể hiện thái độ mỉa mai, châm biếm trước những cảnh chướng tai, gai mắt nơi trường thi. Đồng thời cũng kêu gọi và đánh thức lương tri của mọi người để không quên đi nỗi nhục mất nước và nhìn thấy sự nhục nhã mà căm ghét bọn giặc.

3.3 Câu 3 trang 43 SGK Văn 8/2 Cánh diều:

“Hai câu thơ đề cho thấy kì thi có gì đặc biệt?”

Trả lời:

Hai câu thơ mở đầu bài thơ có tính tự sự, nhằm kể lại kỳ thi Hương. Khoa thi năm Đinh Dậu được nhà thơ Tế Xương giới thiệu một cách rất tự nhiên. Kì thi Hương được tổ chức ba năm một lần theo đúng thời gian quy định.

  Nhà nước ba năm mở một khoa thi

  Trường Nam thi lẫn với trường Hà

Những sự bất bình thường đã được tác giả thể hiện ngay trong câu thơ thứ hai, đó là cách thức tổ chức kỳ thi: trường Nam và trường Hà thi lẫn lộn với nhau. Từ “lẫn” ở trong câu thơ đã thể hiện sự ô hợp và nhốn nháo của kỳ thi cử này. Tác giả không sử dụng cụm từ “thi chung” hoặc một cách diễn đạt khác trang trọng hơn mà dùng từ "thi lẫn". Cách nói ấy của nhà thơ đã dự báo tính chất không nghiêm túc của kì thi. Tế Xương đặc biệt nhấn mạnh sự nhốn nháo, lộn xộn trường thi.

3.4 Câu 4 trang 43 SGK Văn 8/2 Cánh diều:

“Phân tích ý nghĩa trào phúng của nghệ thuật sử dụng phép đối, nghệ thuật sử dụng ngôn từ ở hai câu thực và hai câu luận của bản thơ”.

Trả lời:

Ý nghĩa trào phúng của nghệ thuật sử dụng phép đối và nghệ thuật sử dụng ngôn từ ở hai câu thực và hai câu luận của bản thơ là:

- Ở hai câu thực của bài thơ, những nhân vật trọng tâm của trường thi là sĩ tử và quan trường đều được khắc họa vô cùng sắc nét, bộc lộ rõ được tính cách kỳ thi và tính chất xã hội. Nghệ thuật đảo ngữ đã được tác giả Tế Xương sử dụng để vẽ nên hình ảnh những thí sinh lôi thôi với những chai lọ trên vai trông thật là xốc xếch.

- Biện pháp tu từ được tác giả sử dụng trong hai câu luận là “đối”. Đối lập với hình ảnh các sĩ tử và quan trường là hình ảnh quan sứ và bà đầm. Sự có mặt của đôi vợ chồng quan sứ có thể làm cho quang cảnh nơi trường thi có vẻ trang nghiêm: “cờ cắm rợp trời”.

- Biện pháp đảo ngữ kết hợp cùng với nghệ thuật đối đã được nhà thơ Tế Xương vận dụng một cách triệt để, tạo nên sức mạnh đả kích, châm biếm dữ dội, sâu cay với hình ảnh: "Váy lê quét đất" đối với "Lọng cắm rợp trời". Tú Xương đã đem cờ che đầu quan sứ đối lập với hình ảnh váy bà đầm, điều này đã tạo nên một tiếng cười nhưng ẩn trong đó không ít nỗi xót xa.

- Bên cạnh đó, bài thơ còn được sử dụng ngôn ngữ có tính chất khẩu ngữ, trong sáng, giản dị nhưng giàu sức biểu cảm.

⇒ Chỉ với bốn câu thơ mà tác giả đã vạch trần sự nhếch nhác, tùy tiện của khoa cử lúc bấy giờ. Đồng thời ngầm thể hiện nỗi đau xót xa chua chát của nhà thơ và người đọc.

3.5 Câu 5 trang 43 SGK Văn 8/2 Cánh diều:

“Xác định sắc thái giọng điệu của tác giả trong hai câu kết. Qua hai câu kết cũng như cả bài thơ, có thể thấy được thái độ và nỗi lòng của Trần Tế Xương trước tình cảnh đất nước như thế nào?”

Trả lời:

Hai câu kết bài thơ Vịnh khoa thi Hương:

"Kẻ đỗ khoa kia thế cũng hèn

Kẻ không đỗ cũng thế mà nên"

- Giọng điệu của tác giả trong hai câu kết: mang giọng điệu vừa chua chát vừa ngậm ngùi, đậm chất trữ tình. Sau hàng loạt những hình ảnh mang đầy tính chất châm biếm được thể hiện ở trong hai câu thực và hai câu luận thì cái cười trào phúng bỗng lặng đi ở trong hai câu kết. Thực ra, hai câu kết là tiếng kêu đầy đau xót, nếu có tiếng cười thì đó là tiếng cười nuốt nước mắt vào trong của tác giả Tú Xương trước thảm cảnh nhục nhã của khoa cử - vốn được coi là chỗ dựa, niềm kiêu hãnh của đất nước một thời. Tiếng kêu ở đây chính là tiếng kêu đầy thất vọng, bởi kêu đấy mà không hy vọng có “nhân tài” nào có thể cứu vớt được hoàn cảnh hiện thời. Đó là tiếng kêu trong hoàn cảnh các cuộc khởi nghĩa ở cả ba miền đã bị kẻ thù đàn áp dã man, các công cuộc khai thác và xây dựng thuộc địa của chúng đang từng bước một bóp nghẹt nền văn hoá dân tộc, còn triều đình nước ta thì nhu nhược tiếp tay cho lũ giặc,...

- Câu thơ “Nhân tài đất Bắc nào ai đó?” vừa là lời kêu gọi và cũng là lời nói thẳng về sự thật của đất nước đã thôi thúc, thức tỉnh lương tâm, trách nhiệm của tầng lớp trí thức phong kiến lúc bấy giờ.

- Thái độ và nỗi lòng của tác giả Trần Tế Xương: Nếu ở sáu câu thơ trước, tác giả đã dùng giọng điệu mỉa mai, châm biếm thì đến hai câu thơ cuối bài, tác giả đã chuyển sang giọng điệu trữ tình để lay gọi và đánh thức lương tri mọi người. Tế Xương thấy rõ được sự nhục nhã của hoàn cảnh, của thân phận mà căm ghét bọn giặc ngoại xâm cùng niềm hi vọng mong manh vào một tương lai tươi sáng hơn.

3.6 Câu 6 trang 43 SGK Văn 8/2 Cánh diều:

“Theo em, sự kết hợp giữa cảm xúc trào phúng và trữ tình đã giúp nhà thơ thể hiện được điều gì?”

Trả lời:

Trong bài thơ "Vịnh khoa thi Hương", sự kết hợp giữa cảm xúc trào phúng và trữ tình đã giúp nhà thơ thể hiện được những điều sau:

- Phơi bày hiện thực xã hội và giáo dục thối nát, suy đồi: Bằng giọng điệu châm biếm, mỉa mai, tác giả đã vẽ nên một bức tranh chân thực về kỳ thi Hương với những hình ảnh lố lăng, kệch cỡm: "lọng che lọng mở như phường chèo", "cờ đến cờ bay mập mạp beo", "tay ngài hò hét như quan lớn", "giọng quan lớn cũng chẳng ra gì".

- Thể hiện tâm trạng uất ức, phẫn nộ của tác giả: Qua những hình ảnh trào phúng, tác giả thể hiện rõ sự uất ức, phẫn nộ trước thực trạng xã hội và giáo dục thối nát, suy đồi.

- Gây ấn tượng mạnh mẽ và có sức lay động lòng người: Sự kết hợp giữa trào phúng và trữ tình đã giúp tác giả tạo ra những hình ảnh thơ sinh động, có sức gợi cảm cao. Qua đó, tác phẩm không chỉ phơi bày hiện thực mà còn khơi gợi lòng căm phẫn trước những bất công trong xã hội.

- Thể hiện tài năng nghệ thuật của tác giả: Trần Tế Xương đã sử dụng thành công các phép tu từ như: đối, so sánh, ẩn dụ, cường điệu... để tạo nên những hình ảnh trào phúng sắc sảo, có sức lay động lòng người.

⇒ Sự kết hợp giữa cảm xúc trào phúng và trữ tình là một thành công nghệ thuật của bài thơ "Vịnh khoa thi Hương". Nhờ đó, tác phẩm đã phơi bày hiện thực xã hội và giáo dục thối nát, suy đồi, đồng thời thể hiện tâm trạng uất ức, phẫn nộ của tác giả trước thực trạng đất nước.

Trên đây VUIHOC đã cùng các bạn Soạn bài Vịnh khoa thi Hương. Vịnh khoa thi Hương là một tác phẩm có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc, giúp người đọc hiểu thêm về xã hội Việt Nam vào giai đoạn cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Để học nhiều hơn các kiến thức của các môn học thì các em hãy nhanh tay truy cập và website vuihoc.vn hoặc đăng ký khoá học với các thầy cô giáo của VUIHOC ngay bây giờ nhé!

>> Mời bạn tham khảo thêm: 

Banner after post bài viết tag lớp 8
| đánh giá
Hotline: 0987810990