Phân tích bài Vợ Nhặt - Kim Lân
Tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân là một trong những bài truyện ngắn có tính nhân văn rất cao trong danh sách tác phẩm văn học 12. Ông đã khéo léo vẽ ra một bức tranh chân thực về cuộc sống thực tế của nhân dân Việt Nam trong nạn đói 1945. Để hiểu hơn về tác phẩm cũng như ý nghĩa nhân đạo của tác giả Kim Lân, hay cùng theo sát bài viết sau đây của Vui Học.
1. Sơ đồ tư duy Vợ nhặt
Dưới đây là sơ đồ tư duy phân tích bài Vợ nhặt của tác giả Kim Lân:
2. Lập dàn ý phân tích bài Vợ nhặt
2.1 Mở bài
- Nhà văn Kim Lân (1920-2007) là một trong những nhà văn tiêu biểu của phong cách nền văn học hiện thực Việt Nam thế kỷ XX. Sinh ra trong gia đình nghèo khó, phải bỏ học đi làm từ hết bậc tiểu học. Ông là người hiểu rõ nhất cuộc sống thôn quê, sự nghèo khó của giai đoạn chiến tranh khi đó.
- Ông chuyên viết truyện ngắn về chủ đề làng quê Việt Nam, về cuộc sống sinh hoạt bình dị nhưng phong phú chốn thôn quê. Các tác phẩm tiêu biểu của ông phải kể đến: Vợ nhặt, Nên vợ nên chồng, Con chó xấu xí,...
2.2 Thân bài
a. Giải thích ý nghĩa tên tác phẩm “Vợ nhặt”
- Vợ: là người thân cận, quan trọng, là biểu tượng cho gia đình, mái ấm
- Nhặt: là hành động lấy được một thứ tầm thường không ai cần, không giá trị
-> Vốn dĩ ngàn đời nay để lấy vợ thì phải chuẩn bị rất nhiều lễ, nhiều tục lệ. Là một nghi thức thiêng liêng quan trọng không chỉ với người chồng mà còn ảnh hưởng đến hai họ. Nhưng vào những năm nạn đói thì thân phận con người trở nên rẻ rúng, miếng ăn mới là thứ quan trọng nhất
b. Bối cảnh tác phẩm
- Câu chuyện diễn ra trong giai đoạn nạn đói năm 1945 với mở đầu với nhân vật Tràng. Kim Lân đã khắc họa lên hình ảnh chàng trai xấu xí, thô kệch,ngốc nghếch, nghèo khổ... là một người nếu trong hoàn cảnh bình thường sẽ khó có thể lấy được vợ.
- Nhưng trong hoàn cảnh đói khát cùng cực thì bỗng nhưng một ngày Tràng nhặt được vợ theo đúng nghĩa đen, theo đúng nghĩa ra đường mang được một người vợ về chung sống mà chỉ tốn có bốn bát bánh đúc.
c. Nhân vật Tràng:
- Hoàn cảnh gia đình: nghèo khó, sống cùng một mẹ già. Là dân ngụ cư, sống bằng nghề kéo xe bò thuê
- Ngoại hình: Thô kệch, xấu xí, hai mắt nhỏ tí, quai hàm bạnh ra, ngờ nghệch vụng về,...
- Gặp gỡ và quá trình “nhặt” vợ
+ Lần gặp 1: Khi đang đi kéo xe bò thuê, giữa đường gặp cô gái và bất giác hò lên câu trêu đùa. Chứ không có tình ý gì với cô gái đẩy xe phụ mình.
+ Lần gặp 2: Sau lời trêu đùa, Tràng bị cô gái mắng. Nhưng không những không tức giận, Tràng chỉ cười rồi mời cô nàng ăn dù bản thân cũng không dư dả giàu có gì
Khi lời đùa thành thật, cô gái quyết định theo về nhà. Dù nghĩ đến cảnh nghèo đói, thân mình lo chưa xong còn phải lo thêm một miệng ăn. Nhưng Tràng vẫn “kệ”, sẵn sàng đối mặt với lời nói và quyết định của mình
Không những vậy, Tràng còn đưa cô gái đến chợ sắm thêm đồ. Đây không chỉ là thái độ coi trọng người vợ tương lai của mình mà còn là sự nghiêm túc, chu đáo hy vọng về một tương lai ấm áp hơn
- Trên đường về nhà
+ Tuy không nói gì nhưng sự hạnh phúc, vui sướng của Tràng đã thể hiện rõ trên khuôn mặt. Vẻ mặt hớn hở, luôn tủm tỉm cười
+ Mua thêm dầu về để thắp sáng căn nhà, như ánh sáng của hy vọng trong giai đoạn cùng khó khăn
- Khi về đến nhà
+ Tràng nhanh nhẹn bước vào nhà trước, dọn dẹp sơ qua ngôi nhà. Rồi nhanh chóng thanh minh về sự bừa bộn trong nhà vì thiếu vắng người phụ nữ
+ Khi phát hiện mẹ chưa về, Tràng cảm thấy hơi sợ vợ mình sẽ bỏ đi mất, sẽ không giữ cô lại được vì hoàn cảnh gia đình nghèo khó. Không những vậy Tràng còn mong mẹ về để thưa chuyện, dù nghèo vẫn phải đủ lễ nghi tôn trọng quyết định của mẹ.
+ Khi mẹ về nhà Tràng nhanh chóng nhưng cũng rất trịnh trọng thưa chuyện với mẹ. Tuy căng thẳng nhưng cũng rất nghiêm túc dũng cảm mong mẹ ủng hộ. Khi bà cụ Tứ đồng ý Tràng mới thở phào nhẹ nhõm, có cảm giác an tâm.
- Khi tỉnh dậy sau một đêm
+ Tràng cảm thấy mình trưởng thành hơn, thay đổi sau một đêm khi nhìn thấy ngôi nhà vốn thân quen nay lạ lẫm của mình. Căn nhà sạch sẽ hơn, gọn gàng hơn khi có sự góp sức của người đàn bà.
+ Khi ăn cơm, hình ảnh hiện ra trong suy nghĩ của Tràng là lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới, là hình ảnh của những con người trong nạn đói. Đây như một hy vọng, một tương lai tươi sáng ấm no hạnh phúc hơn.
d. Nhân vật Thị
- Hoàn cảnh gia đình: Không có gia đình, không rõ quê hương. Đây là hậu quả của nạn đói năm 1945 khiến toàn nước ta vô số gia đình ly tán, nhiều người phải bỏ xứ đi để kiếm miếng ăn.
- Ngoại hình: gầy gò, da bọc xương, khuôn mặt lưỡi cày chỉ còn thấy rõ hai con mắt
- Gặp gỡ và quá trình nên vợ nên chồng
Lần gặp 1: Khi nghe thấy câu trêu đùa vui của chàng trai lạ, Thị vui vẻ đến giúp đỡ
Lần gặp 2: Sau lời trêu của Tràng, Thị sưng mặt lên mắng từ chối ăn trầu để tìm kiếm món ngon hơn, no hơn. Khi được mời Thị đã nhanh chóng ngồi sà xuống ăn một lúc bốn bát bánh đúc.
+Khi nghe lời nói tưởng đùa tưởng thật “đằng ấy có về với tớ…” Thị đã theo về thật. Vì dường như đây là cơ hội bám víu duy nhất cho cuộc sống đói khổ của nàng.
- Trên đường về nhà
+ Tuy được miêu tả là một người đàn bà mạnh mồm, có chút chanh chua. Nhưng khi được đưa về căn nhà xa lạ mà tương lai sẽ là nhà mình, Thị cũng có hồi hộp rón rén đi theo Tràng.
-Khi về đến nhà
+ Dù được Tràng đon đả mời vào nhà, mười ngồi thì nàng ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm chặt cái thúng.
+ Khi gặp bà cụ Tứ - mẹ chồng thì ngoài câu chào hỏi rụt rè Thị cũng chỉ dám cúi đầu kèm theo “hai tay vân vê tà áo đã rách bợt”
- Sáng hôm sau
+ Thị chủ động dậy rất sớm, quét tước nhà cửa. Không còn là hình ảnh đanh đá mắng chửi người mà về lại người con gái hiền hậu, nết na.
+ Lúc được mẹ chồng đưa ăn cháo cám, dù “mắt Thị tối lại” nhưng vì không muốn làm mẹ chồng buồn, nàng vẫn tự nhiên cho vào miệng ăn.
+ Thị cũng là người thông tin và nhanh nhạy khi nhắc đến sự kiện phá kho thóc Nhật, khơi gợi lên ý chí mãnh liệt, khát vọng đánh đuổi quân địch cho cuộc sống tốt đẹp hơn của nhân dân ta. Đúng với câu nói giặc đến nhà đàn bà cũng đánh.
e. Nhân vật bà cụ Tứ
- Ngoại hình: Già nua, chậm chạp, dáng đi lọm khọm run rẩy, là người cả đời sống trong nghèo khổ
- Tính cách: lạc quan, luôn yêu thương con cái
- Diễn biến tâm trạng
+ Khi mới về nhà bà giật mình bàng hoàng khi thấy có bóng dáng người phụ nữ là trong nhà gọi mình là u
+ Khi hiểu mọi chuyện đang xảy ra trước tiên bà tự trách khi không có khả năng lo chu toàn cho con cái kèm theo đó là nỗi lo cái đói cái nghèo sẽ càng vây quanh khi có thêm người. Nhưng bà chọn tôn trọng con mình, bà sẵn sàng mở lòng chúc phúc, tiếp thêm niềm tin vào tương lai.
+ Sáng hôm sau bà cụ Tứ cùng cô con dâu mới dọn dẹp nhà cửa, cùng chuẩn bị bữa sáng giúp Thị nhanh chóng hòa nhập với gia đình hơn. Chi tiết bát cháo khoái cũng chính là tấm lòng người mẹ. Tuy không cao sang không ngon lành gì nhưng đó là bát cháo của sự hạnh phúc, là ánh sáng là niềm tin cho tương lai.
2.3 Kết bài
- Khẳng định lại phong cách văn học hiện thực của Kim Lân. Làm người đọc như nhìn thấy tận mắt tình cảnh thê thảm của nhân dân ta những năm nạn đói hoành hành.
- Tác phẩm như một lời lên tiếng giúp cho Kim Lân, xót xa cho những số phận người dân nghèo xóm ngụ cư, gặp phải sự đô hộ của thực dân. Lên án thực dân nhưng cũng là ca ngợi sức sống mãnh liệt, khát khao hạnh phúc dù đang trong tình cảnh khó khăn của lao động nghèo.
- Giá trị hiện thực của tác phẩm: Phản ánh sự đói khổ, thân phận rẻ rúng của con người khi đối mặt với chế độ một cổ hai tròng. Đây là hậu quả của những chính sách vô lý, hà khắc của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Bên thì bắt đóng thuế, bên thì bắt trồng rau đay thay lương thực.
- Khái quát các biện pháp nghệ thuật: Nghệ thuật đối thoại, độc thoại, nắm bắt tâm lý nhân vật; phong cách tả thực, xây dựng cốt truyện tự nhiên kết hợp hay yếu tố hiện thực và nhân đạo.
>>> Bộ sổ tay kiến thức tất cả các môn học thi tốt nghiệp THPT và kỳ thi ĐGNL đang được ưu đãi trước thềm năm học mới. Đăng ký ngay bạn nhé <<<
3. Hướng dẫn phân tích bài vợ nhặt
Kim Lân là một nhà văn có nhiều trang viết gắn liền với hơi thở của vùng nông thôn Bắc Bộ Việt Nam. Ông có nhiều tác phẩm viết về con người và mảnh đất này như: Làng, Vợ Nhặt,...Tác phẩm Vợ nhặt được trích từ tập truyện “Con chó xấu xí” là tác phẩm xuất sắc của Kim Lân. Tác phẩm vừa là bức tranh chân thực về nạn đói khủng khiếp năm 1945 vừa là bài ca ca ngợi về vẻ đẹp tình người và khát vọng sống, niềm tin vào tương lai của người lao động nghèo. Điều đó được thể hiện rõ nét nhất qua tác phẩm này.
Tác phẩm “Vợ nhặt” trích trong tập truyện “Con chó xấu xí”. Truyện được viết ngay sau cách mạng với tên gọi “Xóm ngụ cư”. Nhưng do thất lạc bản thảo nên sau khi hòa bình lập lại, tác giả đã viết lại thành “Vợ nhặt”. Tác phẩm xoay quanh tình huống truyện, anh Tràng nghèo khổ, xấu xí, ế vợ. Giữa nạn đói năm Ất Dậu, chỉ một câu nói bông đùa, bốn bát bánh đúc, hai hào dầu mà Tràng có được vợ. Nói đúng hơn là có vợ theo mà không tốn tiền cưới hỏi gì. Sau đêm tân hôn của đôi vợ chồng son, cuộc sống gia đình Tràng bắt đầu nhen theo ngọn lửa niềm tin. Bà cụ Tứ - mẹ Tràng thì rạng rỡ hẳn lên. Người vợ nhặt thì hiền hậu đúng mực khác với vẻ chao chát ngoài chợ. Kết thúc tác phẩm là chi tiết lá cờ đỏ cùng đoàn người đi phá thóc Nhật.
Tìm hiểu vào truyện ta mới thấy được sự tài tình trong nghệ thuật tả thực. Đó là một cốt truyện, một tình huống éo le khó có thể thấy trong đời sống hiện đại. Câu chuyện xoay quanh chàng trai xấu xí nghèo khổ, là người dân ngụ cư nay đây mai đó có phẩm chất hiền lành, tốt bụng, sẵn lòng cưu mang người đồng cảnh ngộ trong nạn đói khủng khiếp. Anh sống với mẹ già, gia cảnh nghèo túng. Lấy vợ trong thời điểm nạn đói hoành hành, thêm một miệng ăn là thêm một bữa đói. Đã vậy, còn không phải là nên duyên do tình yêu đôi lứa mà chỉ là đúng nghĩa “nhặt” được một cô vợ mang về nhà cùng chung sống. Nhưng nói đi cũng phải nói lại, chính Tràng cũng hiểu được nếu trong hoàn cảnh bình thường, cuộc sống yên bình, người người nhà nhà no đủ thì bản thân Tràng rất khó có khả năng lấy vợ.
Ngoài những câu văn thật đến trần trụi thì Kim Lân cũng theo chủ nghĩa nhân đạo, tôn vinh vẻ đẹp của tâm hồn con người. Tràng có ngoại hình xấu xí, thô kệch. Ngay cả đến tên gọi cũng là tên gọi của một loại đồ vặt dùng trong nghề mộc. Với vài nét bút phác họa đơn giản, Tràng hiện lên có phần giống với những thằng đần, thằng ngốc trong truyện cổ tích. Cái lưng thì được nhà văn tạo thành “lưng gấu”, cái mặt thì ấn tượng bởi “hai con mắt nhỏ tí gà gà, quai hàm bạnh”. Tính cách thì phần trẻ con nhiều hơn. Vì thế chẳng mấy ai thèm nói chuyện, trừ lũ trẻ hay chọc ghẹo khi anh ta đi làm về. Nhưng Kim Lân không có ý định viết truyện cổ tích về thằng đần thằng gốc mà ông đang kể lại một sự thật, sự thật đau lòng về cái đói cái nghèo.
Nhưng cùng là miêu tả hình tượng nhân vật xấu xí như Chí Phèo nhưng Tràng lại không bị biến chất, luôn có niềm tin vào cuộc sống, tin vào tương lai. Hắn luôn sống chân thật với bản thân mình, không cố thay đổi nó để phù hợp với hoàn cảnh. So với người trưởng thành hắn là kẻ ngốc nhưng trong thế giới quan của bản thân, hắn luôn vui vẻ dù thực tế cuộc sống có nghiệt ngã ra sao. Khi ngày ngày thức dậy, bắt đầu ngày mới Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm cong queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Khi mà cái đói cướp luôn tiếng cười vui vẻ hồn nhiên của lũ trẻ trong làng thì Tràng luôn là viên thuốc giúp bọn trẻ trở lại với độ tuổi của mình, chúng vây quanh anh to nhỏ nói cười. Dù bản thân cũng khó khăn, cơm không đủ nó nhưng hắn vẫn tự chịu trách nhiệm với lời nói của bản thân mà mang người đàn bà mới gặp hai lần về làm vợ. Hắn vui vẻ mời người phụ nữ đã cùng phụ hắn đẩy xe một lần, mời người đang mờ mắt vì đói dù bụng hắn cũng chả no cùng lúc “bốn bát bánh đúc”. Câu “Nói đùa chứ về với tớ thì chỉ ra khuân đồ lên xe rồi về”. Nói đùa thế thôi ai ngờ Thị về thật. Là câu nói đùa, câu nói không suy nghĩ liều lĩnh nhất trong đời hắn. Vì khi mà Thị theo về thật lúc đầu hắn lo hơn mừng, lo vì nghèo càng thêm nghèo, lo khi có vợ mà không chắc mình có thể cho cô no ấm. Nhưng ẩn sau trong câu nói tưởng vô tư không suy tính đến tương lai đấy chính là khát vọng về cuộc sống tươi sáng hơn, cuộc sống có đầy đủ người thân, có hạnh phúc trọn vẹn sau này.
Lúc đầu Tràng phảng phất lo sợ về cái đói và cái chết “mới đầu anh cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bồng” Đó là nỗi sợ hãi có thật nhất là thời điểm đói kém như thế này. Nhưng có lẽ tình thương người và khát vọng hạnh phúc đã lớn hơn nỗi sợ hãi nên sau đó anh chặc lưỡi “chậc kệ!”. Chỉ một từ “kệ” thôi, Tràng như đã bỏ lại sau lưng mình tất cả nỗi sợ hãi, mọi lo nghĩ để vui vén cho cái hạnh phúc của mình. Tràng dường như thay đổi sau một đêm, trưởng thành hơn, chín chắn hơn trong cả nhận thức lẫn hành động. Hai con người cùng khổ nương tựa vào nhau, cùng nhau cố gắng cho tương lai. Điều đó thể hiện rõ nhất ở hình ảnh ngôi nhà sau một đêm có người phụ nữ sinh sống. Ngôi nhà vốn chật hẹp, tối tăm, bẩn thỉu nay sạch sẽ gọn gàng hơn, giống nơi có người ở hơn. Nơi đó Tràng lại thấy có mẹ, có vợ, có những người quan trọng và thân thiết nhất. Hắn thấy nhiều hơn về tương lai tươi sáng, thấy thương yêu và cần có trách nhiệm hơn với gia đình.
>>> Khóa học PAS THPT đang ưu đãi giảm giá và học thử hoàn toàn miễn phí, bạn đã biết chưa? <<<
Ngôi nhà đó ngoài chàng trai trẻ, còn có người mẹ già - nhân vật bà cụ Tứ. Cũng là bút pháp tả thực, cụ Tứ đúng như hình ảnh người mẹ tần tảo, kham khổ, lam lũ nhưng tràn đầy lòng nhân hậu với mọi người. Xuất hiện với bộ dạng già nua, lưng gù, dáng đi lọm khọm, tiếng ho “húng hắng”. Nhà văn Kim Lân đã miêu tả rất chi tiết cũng như đúng mạch tâm lý của một người mẹ khi thấy con trai không báo trước đã mang một người “vợ” về nhà.
Như mọi ngày, chiều bà mới về nhà để lo cái ăn cho con trai đi làm thuê. Khi bước vào nhà, đập vào mắt bà là người phụ nữ lạ mặt với câu tự hỏi “ quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia?” Cụ Tứ còn ngạc nhiên hơn khi người đàn bà chưa từng gặp mặt đó bẽn lẽn chào bà bằng u. Kể cả đến khi con trai mình nhắc lại chữ “u” kèm theo cách xưng hô “nhà tôi” thì bà vẫn chưa hết bàng hoàng. Không chỉ ngạc nhiên vì có người phụ nữ lại chấp nhận lấy thằng con xấu xí khờ khạo của mình, bà còn càng ngạc nhiên hơn khi con mình dám cưới vợ trong hoàn cảnh hiện tại. Bao suy nghĩ ngổn ngang không kịp sắp xếp, bao tủi hờn khi mình không thể lo cho con một đám cưới tử tế, cho nó chọn một người yêu đúng nghĩa. Nhưng cũng như bao người mẹ Việt Nam khác, bà chỉ im lặng, tự an ủi mình rồi vui vẻ chúc phúc cho con. Bà không có điều kiện, không thể cho con dâu sính lễ nhưng bà có thể cho được tấm lòng của người mẹ. Bà dễ dàng tiếp nhận người đàn bà con bà mang về dù bà biết khó khăn vẫn còn phía trước. Cụ Tứ còn chủ động thức dậy sớm, cùng nàng dâu mới trò chuyện, cùng nhau dọn dẹp sân nhà, cùng cố gắng tạo nên gia đình hạnh phúc, cuộc sống nhiều màu sắc hơn.
Nhà văn Kim Lân khắc họa khá rõ hình ảnh nhân vật Tràng cả về ngoại hình lẫn tính cách nhưng với nhân vật chính trong chính tiêu đề “vợ nhặt” thì đến cái tên cũng không có - chỉ có cách xưng hô “Thị”. Nhưng đây mới chính là hiện thực tàn khốc nhất của cái đói, của chiến tranh khiến bao gia đình ly tán, khiến tàn phá cả nhan sắc lẫn tính cách con người. Nhân vật thị không có gia đình, không quê hương, chưa từng nhắc đến tên tuổi mà chỉ hiện lên với thân hình gầy gò rách rưới. Chính cái đói khiến cho thân thể Thị bị tàn phá đến không nhận ra. Không còn là người phụ nữ vui vẻ nhiệt tình đẩy xe bò với người đàn ông xa lạ mà giờ đây cái đói đã khiến “hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, Thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Sự nữ tính, dịu dàng trong người con gái cũng biến mất khi cái đói xâm chiếm, Thị cần làm no cái bụng trước. Thị sẵn sàng vứt bỏ thể diện cá nhân để đòi người đàn ông xa la miếng ăn để rồi thỏa mãn “cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc chẳng trò chuyện gì”. Không chỉ vậy, sự mơ mộng của tình yêu thiếu nữ biến mất, không cần xa hoa, không cần đẹp đẽ, Thị sẵn lòng bất chấp đánh cược tương lai khi nhanh chóng theo một người đàn ông mà Thị cảm thấy có thể giúp mình ấm cái bụng.
Tuy hình tượng xấu như vậy nhưng qua ngòi bút của nhà văn Kim Lân, thì nét đẹp của con người vẫn luôn xuất hiện. Ngược lại với ngoại hình xám xịt, giọng nói cong cớn cũng như nét ăn kém duyên dáng. Khi biết mình đang theo người ta về nhà làm dâu, làm vợ thì bản chất chân thật, đảm đang, trong sáng của Thị nhanh chóng hiện lên. Không còn cô Thị gào thét mắng người mà chỉ có người phụ nữ lần đầu đến nhà chồng, bẽn lẽn, e thẹn đi sau Tràng, cùng chồng đi chợ mua dầu thắp sáng cho tương lai.
Khi về đến nhà thì mạch tâm trạng cũng như sự khéo léo của Thị lại càng được hiện rõ hơn. Dẫu biết hoàn cảnh khó khăn là chung nhưng ngay sau sự tò mò về căn nhà mới của mình là sự ngỡ ngàng kèm theo sự cố gắng nén tiếng thở dài khi xác nhận được gia cảnh của Tràng thực sự rất nghèo. Dù thất vọng nhưng Thị không thể hiện ra mặt, nhanh chóng tiếp nhận tương lai, vẫn e thẹn khi chỉ dám ngồi mớm vào mép giường dù Tràng nhiệt tình mời ngồi thoải mái. Sự thẹn thùng này càng nhân lên khi bà cụ Tứ về nhà, Thị đứng nguyên chỗ cũ không dám thở mạnh, không dám nhúc nhích, chỉ rụt rè lên tiếng chào u.
Thị càng hiện rõ hơn hình ảnh người phụ nữ đảm đang khi sáng sớm hôm sau đã chủ động dậy sớm, cùng mẹ chồng dọn dẹp nhà cửa, quét sạch sân vườn, cùng bà cụ Tứ chuẩn bị bữa sáng. Sự thay đổi của Thị rõ đến nỗi một người không tinh tế, không thông minh như Tràng cũng có thể nhận ra. Dường như chỉ sau một đêm, Tràng đã không thể nhận ra người đàn bà chao chát hôm qua mình gặp. Thay vào đó là cô Tấm dịu dàng, đúng chuẩn mực người vợ, người phụ nữ Việt Nam. Không những vậy, Thị còn là người thông minh, biết lo cho tương lai khi cô chủ động gợi chuyện phá kho thóc Nhật trên Thái Nguyên, Bắc Giang như tiếp thêm sức mạnh về một tương lai tươi sáng cho Tràng.
Bữa ăn đầu tiên sau khi về làm dâu cũng là dụng ý nghệ thuật mà tác giả Kim Lân khéo léo cài cắm vào. Có thể nói món quà cưới đầu tiên mà bà cụ Tứ có thể chuẩn bị cho con dâu chính là “nồi cháo cám”. Nói là món quà cho sang chứ đây chính là hiện thực của cái đói, cái nghèo khi bữa cơm thịnh soạn nhất cũng chỉ là sự xuất hiện của nồi cháo loãng, một ít rau chuối thái mỏng, một chút muối trắng cho thêm vị. Nghe có vẻ sang trọng hơn khi bà cụ Tứ gọi đó là “cháo khoái” nhưng thực tế ai cũng hiểu, đây vốn không phải món dành cho con người ăn. Giờ đây nỗi buồn tủi cho số phận Thị dần dâng lên, vốn không ngon lành nay càng trở nên đắng ngắt nơi cổ họng người đàn bà sinh nhầm thời khổ. Sự vui vẻ khi có gia đình, khi dọn dẹp mở đường cho tương lai có phần mất đi. Thay thế vào đó là hiện thực về cái đói, vì sự tồn tại chứ không còn là sống nữa.
Nhưng càng khổ, cái nghèo càng đưa ta vào tuyệt vọng thì lại càng là cơ hội cho tác giả làm nổi bật lên sự lạc quan của con người. Nào thể không biết món đó khó ăn, bà cụ Tứ chính là người cảm nhận rõ nhất hương vị khó nuốt của món cháo đó khi bà mới là người ăn nhiều món đó nhất. Nhưng bà vẫn đùa vui “chè khoán đây, ngon đáo để”, bà vẫn cố đổi góc nhìn khi trong hoàn cảnh người người đối mặt với lằn ranh sự sống và cái chết thì được ăn vẫn là hạnh phúc. Trong sự già nua, đánh dấu cho sự lụi tàn của con người vẫn thấy le lói mầm xanh của sự sống. Vẫn thấy sự kiên cường đối đầu với khó khăn cuộc sống không từ một thân thể cường tráng mà từ một gốc cây cổ thụ già yếu nhưng đầy sự từng trải.
Chính cách xử lý của Thị với bát cháo khoái cũng chính là sự biểu thị cho việc Thị nghiêm túc thế nào đối với tương lai của mình. Tuy thất vọng, tuy oán trách số phận nhưng Thị vẫn điềm nhiên ăn bát cháo mẹ chồng đưa. Không chỉ cố gắng khiến mẹ vui lòng, không chỉ vì miếng ăn khi nhắm mắt đưa tay đưa mình vào một gia đình xa là mà đó là sự khao khát với tương lai. Dù nghèo khổ, bữa no bữa đói nhưng dù sao giờ đây cô đã có một căn nhà để ở, có một gia đình cùng cô chia sẻ buồn vui, cùng nhau đồng cam cộng khổ trải qua khó khăn để hướng đến tương lai tươi sáng hơn. Chính sự hào sảng, thoải mái này càng làm gia đình mới hài lòng hơn. Dù người đàn ông là trụ cột gia đình nhưng chính lời nói của bà cụ Tứ, hành động của người con dâu mới mới chính là ngọn lửa để giữ lửa, vun vén cho hạnh phúc của gia đình sau này.
Cái khéo léo của ngòi bút Kim Lân chính là điều khiển tâm lý người đọc, khiến người đọc thay đổi cảm xúc vui buồn theo từng con chữ. Trong cả đoạn trích, tác giả không một lần nhắc đến thực dân Pháp, phát xít Nhật, không hề ca than về hoàn cảnh, không hề lên án gay gắt kẻ thù. Nhưng theo số phận từng nhân vật, từng nét miêu tả ngoại hình, từng sự thay đổi tâm lý nhân vật đều thay tiếng nói đó. Đó là khi người mẹ già - cụ Tứ phải thốt lên những câu nói nghẹn ngào: “Trống thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ…”. Là lúc nàng dâu mới nói đến chuyện Việt Minh vùng lên kêu gọi mọi người không đóng thuế, cùng nhau phá kho thóc Nhật lấy gạo phân phát cho người nghèo,...Còn chính nhân vật Tràng, do chưa được quân dân giác ngộ lý tưởng cách mạng nên khi thấy những sự đấu tranh đó, anh thấy sợ. Đây cũng là tâm lý bình thường của con người khi đã phải đối mặt với chiến tranh, sống trong kìm kẹp, áp bức quá lâu. Giờ đây khi hình ảnh cờ đỏ sao vàng hiện lên, khi thấy sự vùng lên tuy có nguy hiểm nhưng là cách duy nhất khiến cái đói cái nghèo lùi xa, là cách duy nhất khiến nhân dân có lại được nhân quyền. Thì chính chàng trai khờ khạo đó lại ân hận, tiếc rẻ khi mình không cùng tham gia lật đổ chính quyền đó. Giờ đây Tràng tin vào một tương lai tươi sáng hơn, có giác ngộ Đảng, biết được mình có thể theo ai để có con đường đi đúng đắn, để có hy vọng đổi đời.
Nhà văn Kim Lân đã dùng chính ngòi bút của mình mà vẽ nên một bức tranh chân thực về nạn đói năm 1945. Người nghệ sĩ tài ba đó không chỉ vẽ nên khung cảnh bên ngoài với sự nghèo đói thảm khốc, với sự dã man của quân xâm lược mà còn có thể tái hiện được hình ảnh không thể nhìn thấy chính là tâm lý con người. Ở trong giai đoạn tồi tệ đấy vẫn có người đàn ông xấu xí nhưng vẫn giữ được nét hồn nhiên dù ngày ngày đối mặt với đói nghèo. Ở đó vẫn có người mẹ Việt Nam anh hùng luôn tần tảo thương người thương con, luôn cố gắng dành những điều tốt đẹp nhất, luôn tìm cách gìn giữ hạnh phúc ra đình. Nơi đó cũng không thể thiếu người phụ nữ tuy ngoại hình khuất phục trước số phận nhưng vẫn luôn giữ được cái chân, cái thiện, cái mỹ sâu trong tâm hồn. Cũng như cao hơn chính là niềm yêu thương giữa con người với con người khi mà dù trong bất cứ hoàn cảnh nào con người Việt Nam vẫn luôn mở rộng vòng tay với nhau, vẫn luôn “lá lành đùm lá rách”. Đây cũng chính là lời khẳng định của tác giả rằng cái đói, cái nghèo không thể làm mất đi nhân cách cao đẹp của con người. Dù hoàn cảnh cơ cực, sống trong đọa đầy cũng thể khiến nhân dân Việt Nam ta mất đi niềm tin, hy vọng về một tương lai tươi đẹp. Cũng như dù sống trong áp bức tàn ác cũng không thể khiến cho chúng ta sợ hãi, không ngừng đứng lên đấu tranh đánh đuổi ngoại xâm, đòi lại hòa bình dân tộc.
>>> Giải pháp ôn thi tốt nghiệp THPT theo lộ trình sớm cho các em học sinh <<<
PAS VUIHOC – GIẢI PHÁP ÔN LUYỆN CÁ NHÂN HÓA
Khóa học online ĐẦU TIÊN VÀ DUY NHẤT:
⭐ Xây dựng lộ trình học từ mất gốc đến 27+
⭐ Chọn thầy cô, lớp, môn học theo sở thích
⭐ Tương tác trực tiếp hai chiều cùng thầy cô
⭐ Học đi học lại đến khi nào hiểu bài thì thôi
⭐ Rèn tips tricks giúp tăng tốc thời gian làm đề
⭐ Tặng full bộ tài liệu độc quyền trong quá trình học tập
Đăng ký học thử miễn phí ngay!!
Như vậy, VUI HOC đã hướng dẫn các em phân tích bài Vợ Nhặt chi tiết nhất. Qua tác phẩm này, các em có thêm hiểu biết về đời sống của người nông dân Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến. Để học thêm nhiều tác phẩm văn học hay trong chương trình cũng như các bài tham khảo Soạn văn 12, các em hãy truy cập vào trang web vuihoc.vn hàng ngày nhé!
>> Mời các bạn tham khảo thêm: