Phân tích tác phẩm nỗi buồn chiến tranh - Văn 12 mới
Dưới đây là bài phân tích hình tượng nhân vật trong nỗi buồn chiến tranh vô cùng hấp dẫn được chọn lọc kỹ càng bởi VUIHOC. Thông qua những bài viết tham khảo, chúng ta sẽ nhận thấy được hậu quả vô cùng nặng nề mà chiến tranh đã gây ra cùng với sự nhìn lại và hành trình đi tìm sự sống trong ký ức ám ảnh.
Phân tích tác phẩm nỗi buồn chiến tranh - Văn 12 mới
1. Phân tích hình tượng nhân vật Phương trong nỗi buồn chiến tranh
Trong tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh, không chỉ có nhân vật Kiên mà tính cách nhân vật Phương cũng vô cùng nổi bật và đáng chú ý. Trong từng câu, từng chữ của truyện với nỗi buồn phảng phất tới xé lòng của nhân vật Kiên còn có cả nỗi cay đắng dai dẳng của nhân vật Phương được miêu tả một cách cụ thể.
Nhìn lại những tác phẩm văn học đương đại trong cả truyện ngắn và tiểu thuyết lẫn thơ ca, hình ảnh của người phụ nữ trong chiến tranh được hiện ra với cảm giác rất nhanh nhẹn, tháo vát, đóng vai trò như những thanh niên xung phong hoặc giao liên cho bộ đội tại chiến trường. Cạnh đó, cũng có những cô gái đứng sau giữ vững hậu phương, chung thủy đảm đang, thay thế cho chồng và con ra trận, sẵn sàng làm tất cả mọi việc của cánh đàn ông. Họ năng động ở trong phạm vi của mình nhưng lại thường rất đơn giản và sơ lược về đời sống tinh thần. Nếu có, các tác giả cũng đều chỉ mô tả qua những giọt nước mắt sụt sùi rồi người phụ nữ lại vẫn phải cứng cỏi và mạnh mẽ một cách khó hiểu. Có người cho rằng, đó chính là tính cách đặc trưng của con người Việt Nam, là hình ảnh lý tưởng thường được nhắc tới trong văn học.
Ở nhân vật Phương, chúng ta không thấy được cách mô tả đó. Trong Nỗi buồn chiến tranh, hình mẫu của cô khác hẳn và có thể nói là trường hợp ngoại lệ. Nếu bắt đầu từ trước ngày súng nổ, cô gái đã có được nhận thức mới, khác hẳn so với góc nhìn của phụ nữ cùng thời trong bộ truyện hay thơ khác. Cô không giống như Kiên lao vào hành động, mà cô có cái gì đó nôn nao khó tả, đó là một dự cảm và là giác quan thứ sáu rằng sắp tới có thể sẽ xảy ra một điều lớn lao. Sự nhạy cảm của cô gái khiến cho người đọc cảm nhận được rằng cô tinh tế hơn hẳn so với người bạn trai cùng tuổi. Chính Phương đã nói ra những điều lớn lao đó, một cách trực tiếp, dường như lịch sử đã làm theo lời cô nói.
Khi Phương và Kiên đi nghỉ, buổi tối ở bên bờ biển, nơi đó có sự huyền bí của thời điểm mặc khải, cũng chính là lúc mở ra những điều bí mật. Từ lúc chưa ai nhận ra, chính cô gái ấy lại cảm nhận được chiến tranh đang đến rất gần. Những gì Phương phản ứng trước thực tại cũng vô cùng bất ngờ nhưng cũng rất hợp lý. Một lần nữa, người đọc lại có thể cảm nhận được sự sâu sắc của cô gái so với người bạn trai của mình. Cô không sống với cuộc đời trước mắt mà cô còn sống vì ký ức từ thuở xưa, thuở cha ông hào hùng với những tác phẩm Chinh phụ ngâm hay lời ru thông qua câu ca dao “Con cò lặn lội bờ sông – Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”.
Ở Phương đang dần tiếp nhận chiến tranh đang đến gần cho dù súng chưa nổ. Chính cô đã cảm nhận và bị rơi vào trạng thái lạc lõng so với những người cùng thời điểm (trong đó có Kiên) điều đó cũng chứng tỏ cô gái nhạy cảm ấy có sự thấu hiểu vô cùng sâu sắc về thời đại mà mình đang sống, một cách nghĩ khiến cho người nghe phải nghi ngờ.
Nói chung, nếu đối chiếu với thông lệ hoặc với quá khứ, Phương đã vượt qua mọi khung bậc chung để đánh giá về phụ nữ. Chính tác giả cũng để cô thể hiện ra sự lạ đời của mình thông qua hình ảnh Phương đứng gần với cha Kiên hơn khi ông họa sĩ đốt tranh và bị một số người cho đó là giả tạo. Nhưng với logic nhân vật, cách sắp xếp ấy lại hợp lý bởi vì cả hai thường nhận họ là những kẻ lạc loài và sự thật họ chính là con người của nhân đạo, của sự vĩnh cửu lạ thường, một cách hiểu vô cùng mới mẻ đến mức người ta còn phải nghi ngờ.
Với sự đánh giá dựa trên hiểu biết và trình độ của bản thân, Phương đã đoán đúng thời cuộc sau này sẽ diễn ra. Từ đó, cô gái phải tự mình tìm kiếm sức mạnh nội tại, sức mạnh tinh thần để hòa vào xã hội ở cùng thời điểm. Bản thân cô thuộc mẫu người có trí tuệ bản năng, điểm này đã giúp cho Phương không cứng nhắc mà có thể linh hoạt, sắp xếp được cảm xúc sao cho phù hợp với từng thời điểm. Chính sự điều chỉnh ấy khiến cô như khác người nhưng lại trở thành một điểm hết sức hợp lý bình thường, bởi trong cô có cái nhạy cảm mà người khác sẽ không có được, nhưng chính cô lại lảng tránh với sự thật mà mình đã có thể phán đoán ra.
Trước đây, không ít lần có những bài đánh giá về sách của tác giả Bảo Ninh, kèm theo đó là sự gợi nhớ đến phim hay truyện được làm về chiến tranh như Khi đàn sếu bay qua hay Bài ca người lính. Trong những câu chuyện có, người phụ nữ được vẽ ra với nét rất điển hình. Họ sẵn lòng để cho người yêu ra đi nhưng trong lòng lại đau đớn xiết bao, rồi đến khi chính bản thân họ cũng không thể nào chống chọi nổi cảm giác cô đơn, suy sụp và mòn mỏi chờ đợi.
Trong những lần bàn về cuốn sách của tác giả Bảo Ninh, một số người có nhắc đến nền văn học xô – viết viết về chiến tranh cùng với những bộ phim được làm theo nền văn học đó kiểu như Khi đàn sếu bay qua hay Bài ca người lính.
Trong những tác phẩm đó, những nhân vật nữ đều hiện lên như những con người sẵn lòng để cho người yêu của mình ra đi, nhưng trong lòng lại xiết bao nhiêu đau đớn. Rồi ngay trong lòng hậu phương bản thân họ cũng bị vùi dập do nỗi đau tinh thần và quay ra rượu chè, chơi bời. Suy cho cùng, đó cũng là sự yếu đuối tầm thường tồn tại trong mỗi con người chúng ta, không vì thế mà những con người đó trở nên đáng trách, bởi họ cũng chỉ là những nạn nhân của cuộc chiến tranh mà thôi.
Phương trong truyện Nỗi buồn chiến tranh dường như có rất nhiều nét giống với những nhân vật chính ở trong văn học hay phim ảnh Nga nói trên. Cô gái không kiêu ngạo “ví đây đổi phận làm trai được – thì sự anh hùng há bao nhiêu” (thơ của Hồ Xuân Hương). Cô cũng không cam chịu, gồng mình để hi sinh, lấy đau khổ làm số phận cho cuộc đời của chính mình. Nhưng nếu vậy, hình ảnh của người con gái đó chính là “con người Việt Nam” lý tưởng trong bộ truyện của tác giả Bảo Ninh hay sao?
Trước đó, hình ảnh của Phương đã được dẫn dắt thông qua lời nói của mẹ cô, rằng, cô có xu thế hoàn hảo và ước mơ được nhập thân vào trong cuộc sống. Nhưng làm sao để cả hai phẩm chất trái ngược đó có thể dung hòa trong tính cách của một con người? Bởi sự sống luôn vô thường và dang dở, khó thể nào hoàn hảo. Muốn hoàn thiện, người ta trước sau gì cũng phải đối diện với nhiều lần gãy nát và đổ vỡ. Cũng may ở cô gái ấy, sự nhạy cảm vẫn thuộc về phần nhiều. Cô dám từ bỏ ao ước ban đầu để giữ lại cho mình phẩm chất thứ hai và dần thích nghi một cách tự nhiên. Cô chấp nhận phá bỏ nguyên tắc cho dù điều kiện ra sao, cô có thể đầu hàng cũng có thể giả tạo, có thể từ bỏ chính mình, miễn sao là được sống.
Dù có đời sống tinh thần vô cùng phong phú nhưng cô cũng nhận ra có một thứ còn quan trọng hơn tất cả đó chính là sự tồn tại. Cô đã sớm nhận thức được và hiểu ra điều đó. Trước hết, cô thích ứng dần trước sự thay đổi không thể nào kiểm soát dưới tác động của chiến tranh. Bước ngoặt này đến ở nhà ga Thanh Hóa ngay lúc có Kiên bên cạnh. Lúc ấy, cả hai từ Hà Nội vào và đều vừa phải trải qua một cuộc hành trình vô cùng kinh khủng. Tiếp đến, họ lại bị rơi vào một cái ga bị ném bom, cô bị lạc Kiên và rơi vào tay của một gã khốn nạn.
Khó có thể so sánh được sự đau đớn của Kiên với Phương ai lớn hơn ai, nhưng ở đây ta có thể cảm nhận được sự mất mát của Phương là quá lớn. Nhưng cách phản ứng của cả hai người đều khiến người đọc phải bất ngờ. Sau cơn lê lết đau đớn ê chề, Phương đã hồi phục một cách nhanh chóng, nhưng trong biểu hiện của người bạn trai, cô vẫn thật lộng lẫy, “mềm mại”, “mịn màng” và “tuyệt mỹ”:
Nhưng dù sao đi chăng nữa, với Kiên, sự thích ứng của Phương lại chính là tội lỗi. Anh cảm nhận rằng cô ấy đã phản bội, đã đầu hàng và đã “quỳ gỗ trước cái số phận mới mẻ”, chàng thanh niên không tha lỗi cho cô gái vì đã để cho kẻ khác xúc phạm mà lại quên ngay được và trở về sống một cuộc sống bình thường dễ dàng. Cái anh mong muốn là bạn gái phải tự xỉ vả bản thân mình và phải xấu hổ muốn chết đi. Nhưng Phương thì lại ngược lại, cô coi tai họa đó như cái gì đến tất đến, không có mặc cảm phạm tội và cũng không bị ràng buộc bởi quan điểm của người cùng thời mà có phần cổ lỗ. Với cô, lúc này chung thủy hay là phản bội thì cũng không có ý nghĩa gì cả.
Ít người hiểu được tại sao tác giả lại đưa tình tiết này làm cao trào và là phần kết cho câu chuyện, xem như đó là chìa khóa để mở ra tâm lý nhân vật. Đây cũng là thời điểm đánh dấu sự sâu sắc của Phương đã vượt xa so với Kiên, cô đã trở thành con người khác, cô có thể thấu hiểu bản thân mình dù trước đó không cảm nhận được, không hiểu hết được và tất nhiên, Kiên cũng chẳng bao giờ có thể nhìn thấy hết được con người của cô gái ấy.
Ban đầu Phương đã thích ứng được với chiến tranh, đến khi giai đoạn đó kết thúc, cô lại dần thích ứng với hậu chiến, một cách rất tự nhiên, nhưng thực tế, đây là giai đoạn rất dài với quá nhiều cung bậc. Nhiều người cũng bắt đầu so sánh về Phương với Kiên khi chiến tranh đã tới hồi kết: Trong khi Kiên vẫn đang tìm kiếm trong quá khứ sứ mệnh của mình thì Phương hoàn toàn ngược lại.
Cô không hề chìm đắm trong quá khứ, trở thành một kẻ khát rượu hay chỉ nghĩ về những chuyện đã qua. Cô thẳng thắn, lúc lại quanh co nhưng vẫn luôn kiên trì: chuyện hôm qua không thể nào giải thích được, cách sống của hiện tại chính là quên hết những chuyện đã qua. Và như kết cục tất yếu, cả hai đã không thể bên nhau khi khác biệt đã quá nhiều, Phương đã bỏ đi trong sự tiếc nuối và thương nhớ khôn nguôi của Kiên. Cô đã đi như lãng quên tuyệt đối. Với Phương, quyết định đó là hợp với logic cũng như tính cách của cô. Nếu Kiên chỉ theo đuổi những điều đã qua, Phương thì lại có con đường dài hơn và rộng hơn. Kiên hào hứng và miên man trong những ký ức xưa cũ vì anh vẫn là mình và vẫn giữ bản thân trong chiến tranh. Còn với Phương, bề ngoài có vẻ khá nhởn nhơ với vẻ đẹp nguyên vẹn nhưng chính cô lại đang phải dần thích ứng với thời đại. Nhờ vậy, cô vẫn có thể tồn tại được cho đến ngày nay, chỉ là không còn bóng dáng của cô gái ngày hôm qua.
Nhìn có vẻ như Phương đang vô cùng lạc lõng, nhưng có lẽ chính cô lại là một tổ hợp của tính cố hữu mà người Việt nào cũng có trong máu. Nếu tách ra để nhìn lại đời sống tinh thần của xã hội thời chiến, chính tính cách của nhân vật Phương đã khiến cho Nỗi buồn chiến tranh có thêm một tầng ý nghĩa.
Phương với Bảo Ninh không phải cách để ca ngợi về vẻ đẹp của phái nữ như nhiều nhà văn hay nhà thơ khác vẫn thực hiện. Trong cả tiểu thuyết, người ta có thể cảm nhận được cô chính là hậu phương và là nền tảng vững chắc để cho Kiên dựa vào, là yếu tố làm nên tư tưởng chủ đạo cho tiểu thuyết.
Có Phương, người ta có thể so sánh với tính cách của Kiên, so về cách nhìn đời, cách đối diện và cách phản ứng của mỗi người. Có đôi khi cả hai cùng đồng hành và thông cảm cho nhau. Phương là vẻ đẹp mà Kiên khó có thể vươn tới. Nhưng đến khi đối diện với mặt tối của chiến tranh, Phương lại chấp nhận để tồn tại, cô trở nên thực tế hơn hẳn nếu so với nỗi đau của Kiên. Cô ra đi để lại cho Kiên sự nuối tiếc, hình ảnh của Phương chính là đại diện tiêu biểu cho một cuộc đời vừa gần gũi nhưng cũng có rất nhiều điểm bí ẩn. Nhân vật của cô tồn tại để biểu hiện cho sự mệt mỏi sau quãng thời gian kháng chiến, sau những năm tháng méo mó, người ta muốn nhanh chóng được quay lại cuộc sống bình thường, muốn tìm lại sự bình yên vốn có bất chấp hiểu rõ mọi sự cũng chỉ là giả tạo.
Việc miêu tả hai nhân vật Phương và Kiên song song với nhau khiến cho hình ảnh của con người trong chiến tranh được mở rộng theo nhiều chiều hướng. Ở đó, người ta có thể cảm nhận được có nhiều dạng phản ứng dưới sự tác động của thời đại. Những người như Kiên và Phương vẫn luôn luôn tồn tại ở thời kỳ hậu chiến, dù không được hưởng ứng nhưng cách mà tác giả Bảo Ninh xây dựng đã khiến cho nhân vật trở nên thật logic và gần gũi hơn rất nhiều.
Đăng ký ngay để được các thầy cô tổng hợp kiến thức và xây dựng lộ trình đạt 9+ thi THPT Quốc Gia
2. Phân tích hình tượng nhân vật Kiên trong nỗi buồn chiến tranh
Tác giả Bảo Ninh đã viết nên tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh, nó đại diện cho lối tả thực và thẳng thắn mô tả về những mặt trái của vinh quang sau cuộc chiến tranh kết thúc. Cách hành văn lôi cuốn và cách xây dựng nhân vật với tính cách logic, nhất quán dưới sự ảnh hưởng của thời chiến từ trước khi cuộc chiến nổ ra, trong chiến tranh tới thời bình khiến cho tác phẩm trở nên vô cùng đắt giá. Trong từng câu và từng chữ, tác giả Bảo Ninh đưa chúng ta đến những cung bậc cảm xúc của nhân vật Kiên, một người lính đã may mắn được sống sót sau cuộc chiến.
Bảo Ninh viết về nhân vật Kiên in đậm mùi của chiến tranh từ trong xương tủy tới cơ thể và cả nội tâm. Dù may mắn sau bom rơi, lửa đạn, anh quay về với cuộc sống bình thường nhưng với anh lại vô cùng lạ lẫm, không còn sự quen thuộc như xưa. Kiên lạ lẫm với cuộc sống hiện tại và cảm thấy vô cùng xa lạ vì những gì mà mình đang trải qua. Anh phải chọn rượu, thuốc và cả viết lách để anh có thể nhớ về những giây phút bình yên ở trong tâm hồn, để anh có thể tránh xa khỏi giấc ngủ nơi mà cơn mơ về những cuộc chiến lại trỗi dậy, nơi mà ở đó lại có chết chóc, đẫm máu và sự hy sinh của đồng đội.
Tác giả Bảo Ninh đã sử dụng câu từ một cách trực diện và không hề viết bóng gió, ẩn dụ mà trực tiếp vẽ nên một bức tranh đau thương mà nhân vật Kiên đã trải qua. Ở đó bao trùm là nỗi buồn và sự đau khổ ngập trùng trải rộng từ đầu tới cuối. Những gì mà chúng ta nghe thấy qua phim ảnh, qua truyện chỉ là một phần vô cùng nhỏ so với những thứ mà một người lính thực thụ đã phải trải qua. Khiến cho họ nay không thể sống giống như người bình thường, chính anh cũng thỉnh thoảng nhắc lại trong cuộc đời mình câu nói của thời chiến: “Có người nằm xuống thì mới có người được sống”. Quan điểm đó chưa bao giờ đúng trong thời bình nhưng anh lại bị ám ảnh và ghi sâu vào trong tiềm thức. Bởi khi còn trong quân ngũ, đồng đội của anh thường xuyên phải đánh đổi cả tính mạng của bản thân, từng cái chết của mỗi thành viên trong đội trinh sát là sự hy sinh để cho Kiên được sống. Họ đã để lại phần đời còn lại cho Kiên, cũng chính nó đã khiến cho anh giằng xé nội tâm, khiến cho anh bị giày vò trong nỗi cô đơn mà chỉ mình anh có thể hiểu được.
Đọc từng câu, từng chữ, ta có thể thấy được nội tâm vô cùng đáng thương của người lính về với thời bình. Cái bóng của quá khứ là quá lớn và chiếm lấy toàn bộ tâm trí của Kiên. Nhưng anh vẫn phải tồn tại, anh vẫn cần phải sống và phải tìm được hy vọng để trở về với cuộc đời bình thường cho dù hành trình ấy chứa đựng rất nhiều đau khổ. Giấc ngủ với anh giống như một cuốn phim khi hết ký ức này tới hình ảnh khác bỗng dưng ùa về, bản thân anh giống như một chiếc rạp chiếu về đêm và là phim được phát sóng liên tục cho dù anh không muốn điều đó xảy ra, tất cả đã ám ảnh với cuộc sống của Kiên hằng ngày, khiến cho anh phải mượn rượu để trở nên tỉnh táo và để quên đi tất cả mọi chuyện. Và đó cũng chính là lý do anh phải thức thâu đêm để có thể viết lại quá khứ cuộc đời mình, chỉ như thế, Kiên mới thoát ra khỏi xiềng xích đau thương, của một thời đã được sống và chiến đấu, ghi lại những ký ức cho người đã nằm xuống.
Toàn bộ truyện có mạch không liên tục, có những lúc tưởng rằng tác giả Bảo Ninh sẽ phát triển thêm nhưng ông lại dừng ở đó. Cũng có những cái chết được tôn vinh và được nhắc đến như một điều hiển nhiên. Tất cả những điều ấy đã ám ảnh cuộc đời của Kiên, ám ảnh vì quá khứ và dường như nhân cách của anh cũng đã bị hủy hoại. Nhớ lại lúc trước, anh vẫn còn là một cậu học sinh Chu Văn An 17 tuổi chính trực, cậu đã yêu Phương say đắm. Nhưng thời cuộc đổi thay khiến cho chuyện tình ấy chẳng kéo dài được bao lâu, quá trình cũng chẳng giống với bất kỳ mối tình nào ở thời đó. Cái kết giống như đã đợi sẵn họ từ lâu, khi cả hai người yêu nhau nhưng tâm hồn lại không có sự đồng điệu, sự rời xa như hiển nhiên và là tất yếu. Trong tiểu thuyết, hai nhân vật có đến hai lần xa nhau. Ở lần đầu tiên, Kiên đã chủ động rời xa Phương khi nhận thấy rằng cô quá dễ dàng chấp nhận hiện tại và đã đánh mất đi chính bản thân cô ở trong quá khứ. Lần hai, Phương là người quyết định sẽ rời xa nhưng tác giả vẫn còn bỏ ngỏ về lý do của lần rời đi này. Rằng cô cho mình không xứng đáng nên ra đi hay vì cô đã bị thú vui hoan lạc ấy nhấn chìm từ lâu, hay bởi vì Phương nghĩ rằng Kiên luôn sống vùi trong quá khứ, cuộc đời cô chính là hiện tại và tương lai nên cô phải ra đi để tìm con đường khác.
Bởi, trong tiểu thuyết Kiên không thoát ra được cái bóng của quá khứ, chúng cứ đi theo anh và ám ảnh anh cả trong mơ lẫn ngoài hiện thực. Có thể như người ta đánh giá, tâm hồn Kiên thực sự nhạy cảm, chỉ một cơn gió cũng đủ kéo anh từ căn phòng nơi mà mình đang sống về với căn cứ chiến đấu ngày xưa, nơi đó có sự hy sinh cao cả của những người đồng đội. Chính những điều đó đã ám ảnh Kiên mỗi ngày, anh chỉ sống được trong những ngày xưa cũ, những ngày phải lao đầu đi trong đêm để hy vọng ngày tươi đẹp rồi sẽ đến, để rồi khi ngày ấy đã đến thật, anh lại chìm vào trong quá khứ, mộng tưởng về những chuyện đã xảy ra. Kiên lựa chọn việc viết lách để sống, để liên kết giữa hiện tại với quá khứ. Bóng đèn phòng anh được người dân ví von giống như ngọn hải đăng vì soi sáng khu phố nơi mà anh đang sống. Anh cũng được người khu đó gọi là “nhà văn của phường tôi”. Chất liệu văn của anh dường như giống với tác giả Bảo Ninh, khi mỗi trang sách đều chất chứa tang thương, đau đớn tột cùng và những nỗi ám ảnh trong từng dấu chấm, dấu phẩy. Chẳng tự nhiên mà nhân vật Kiên lại có chất văn như thế, bởi anh đã trải qua những ngày tháng như vậy, chính anh đã đi qua bom rơi, lửa đạn và chính anh đã phải trải qua rất nhiều đau thương.
Từ năm 17 tuổi, Kiên đã mất cả cha và mẹ, rồi sau đó, anh mất đi bóng hình của người con gái mình yêu. Anh lao vào chiến đấu với vai trò như một trinh sát nhưng cuộc đời không cho Kiên được phép hạnh phúc. Anh không chết nhưng phải chứng kiến biết bao nhiêu đồng đội của mình phải hy sinh ngay trước mắt. Tất cả đã trở thành những vết thương găm sâu vào trong tim, trong phổi cho dù vô hình nhưng đau đớn dày xéo tới tận sau này khi đã trở lại với cuộc sống thường ngày.
Gặp lại Phương rồi cô cũng bỏ anh mà đi, sau đó Kiên cũng có một vài mối tình, người đáng thương nhất phải nói tới người đàn bà câm sinh sống ở nơi từng là xưởng vẽ của bố Kiên. Kiên tìm đến người ấy để tâm sự và để kể hết về những tác phẩm mà anh đang thực hiện. Rồi đến khi người đàn bà câm đó có tình cảm với mình, Kiên lại chọn cách rời đi, chỉ để lại trang bản thảo mà không nói lấy một lời. Dụng ý của tác giả khi nói đến tất cả những gì còn lại của Kiên đều để lại cho người đàn bà câm có lẽ để ám chỉ cuộc đời Kiên giờ không còn ai biết ngoài những con người đã cầm trang bản thảo. Chúng cũng chấm dứt như cái cách mà anh chọn rời đi, rời phố xá quen thuộc mà không hẹn ngày trở về. Nhưng, tác giả cũng mô tả người đàn bà câm rất nâng niu đống giấy chất đống đó cho dù không trình tự và không theo bất kỳ quy chuẩn nào. Như một sự kỳ vọng, ngày nào đó Kiên sẽ trở về, để tiếp tục viết ra những trang sách mới, kể về những hồi ức của ngày xưa.
Lúc này, ngôi kể của tiểu thuyết có sự thay đổi, từ ngôi thứ ba chuyển đổi thành ngôi thứ nhất. Nhân vật tôi tìm đọc bản thảo của Kiên và bắt đầu cảm nhận, thấy thương cảm cho những gì mà anh đã trải qua. Dần dần nhân vật tôi cũng hiểu được Nỗi buồn chiến tranh mà chính nhân vật ấy cũng có, cũng đồng cảm và thấu hiểu cho những vấn đề mà Kiên đang gặp phải.
Nỗi buồn chiến tranh chính là một quyển sách chứa đựng rất nhiều nỗi buồn sâu thẳm, những ký ức dằn xé và trong hơn 200 trang sách về nhân vật Kiên cũng như về cuộc đời mà anh phải đối diện trước sự tác động của chiến tranh, của thời cuộc. Đâu đó ở thực tại vẫn còn rất nhiều người như anh, khi chiến tranh đã kết thúc, họ không thể nào sống một cuộc đời bình thường như những người khác, họ đã phải nỗ lực để có thể vượt qua hoặc tìm con đường giải thoát cho chính tâm hồn của mình.
>> Xem thêm: Soạn văn 12 kết nối tri thức
3. Phân tích đoạn trích nỗi buồn chiến tranh
Bảo Ninh là một nhà văn cựu chiến binh, quê ông ở Quảng Bình, sinh năm 1952 tại Nghệ An, trong một gia đình rất nhiều đời nho gia, bố của ông là nhà ngữ học nổi tiếng Hoàng Tuệ, từng nắm chức Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học, nghiên cứu về chuẩn tiếng Việt và nhiều vấn đề liên quan tới chính sách ngôn ngữ của Nhà nước. Sau năm 1975, Hoàng Ấu Phương đã được giải ngũ, theo học Trường viết văn Nguyễn Du khóa III, bắt đầu sự nghiệp viết văn từ năm 1987. Thời đi bộ đội, Phương đã từng đọc tiểu thuyết Phía Tây không có gì lạ của nhà văn Erich Maria Remarque (1898 - 1970) viết về đề tài Thế chiến thứ nhất. Hòa bình, thân phụ của nhà văn sau chuyến đi Pháp có mang về một tập tiểu thuyết Cuộc đời và số phận của Grossman (1905 - 1964), viết về cuộc sống của người dân Xô-viết trong chiến tranh chống phát xít. Cả hai cuốn sách ấy có tính phản tư về lịch sử đều có ảnh hưởng tới tư tưởng và nghệ thuật của tác giả Bảo Ninh. Khi viết Nỗi buồn chiến tranh theo kiểu phản tư, không phải Bảo Ninh không biết trước được những hiểm nguy đang chờ đón ông. Nghệ thuật của ông có tính chất dấn thân và xuyên suốt thời gian hơn 30 năm, trước bao nhiêu làn sóng dư luận, ông vẫn giữ vững thái độ im lặng bình thản. Từ đây ta có thể thấy được ý thức nghệ thuật cùng với tinh thần dũng cảm của nhà văn Bảo Ninh.
Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1990, tiêu đề lúc bấy giờ do các biên tập viên của nhà xuất bản Hội nhà văn lựa chọn là “Thân phận của tình yêu”. Tuy nhiên, chỉ sau khoảng một năm sau đó, quyển sách đã được tái bản với tiêu đề do chính tác giả đã lựa chọn là “Nỗi buồn chiến tranh”. Cũng trong năm ấy, quyển sách đã nhận được giải thưởng vô cùng danh giá từ Hội nhà văn, nhưng chính vì lẽ đó đã dấy lên một hồi tranh cãi không ngừng trong số những tác phẩm nhận giải (tính tới ngày nay). Sau màn tranh cãi đó, quyển sách gần như không còn được xuất hiện trong những tác phẩm phê bình hay thảo luận về văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Dù vậy, khi được giải, Nỗi buồn chiến tranh đã được dịch và giới thiệu tới rất nhiều quốc gia, nhận được những phản ứng tích cực. Theo Independent (Nhật báo tại Anh): “Vượt ngoài sức tưởng tượng của người Mỹ, Nỗi buồn chiến tranh được đi ra từ chiến tranh Việt Nam đã đứng ngang hàng với cuốn tiểu thuyết chiến tranh vĩ đại của thế kỷ, Mặt trận phía Tây vẫn yên tĩnh của tác giả Erich Maria Remarque (…) Một cuốn sách viết về sự mất mát của tuổi trẻ, cái đẹp và một câu chuyện tình đau đớn… một thành quả lao động tuyệt đẹp.”
Sau khi tác phẩm ra đời 15 năm, những câu hỏi đã được đặt ra từ chính nó vẫn chưa có lời giải đáp chính xác. Rằng đây là quyển tiểu thuyết về tình yêu bi thảm ở trong chiến tranh (như cái tên đã được ban biên tập lựa chọn “Thân phận của tình yêu) hay về “Nỗi buồn của chiến tranh”, những suy nghiệm của bản nhân về thực tại lịch sử?
Dù đáp án có ra sao nhưng có thể khẳng định được rằng khi Nỗi buồn chiến tranh ra đời, Bảo Ninh đã thổi một làn gió vô cùng mới lại vào giới nghệ thuật tiểu thuyết ở Việt Nam. Bởi các nhân vật của anh không mang tính ước lệ và không phải con người hành động, không kể tả hoặc tái hiện lại đời sống quanh nhân vật. Ngược lại, Bảo Ninh đã khắc họa thế giới nội tâm vô cùng phong phú, đầy sự dằn vặt cùng với những hồi ức đau thương và ám ảnh trong đó.
Toàn bộ truyện được giả định từ một tình huống hư cấu, rằng đó là quyển tiểu thuyết của nhà văn, cựu chiến binh Kiên kể về thời tuổi thơ, tuổi trẻ và những tháng năm ở trên chiến trường và cuộc đời hậu chiến. Trong tiểu thuyết chính là hành trình viết tiểu thuyết của nhân vật Kiên, được sáng tạo dựa trên sự xung đột và dằn vặt về mặt tinh thần của nhân vật này khi viết ra một bộ sách mãi mãi không thể hoàn thành. Đến lượt mình, Nỗi buồn chiến tranh lại trần thuật (nhân vật tôi), lộ diện ở phần cuối giúp hé lộ cho người đọc biết được rằng nhân vật này cũng là cựu chiến binh, đang sắp xếp và định dạng lại tác phẩm của Kiên.
Kết cấu nói trên chính là thách thức đối với người đọc ở Việt Nam (ít nhất là thời điểm tác phẩm được ra đời). Nó không có một cốt truyện mạch lạc, không có phân chia tuyến nhân vật vì tương hợp với đời sống tinh thần của nhân vật Kiên, một thế giới đầy rẫy những ám ảnh. “Một sáng tác dựa trên cảm hứng chủ đạo của sự rối bời” bởi bản thảo cũng không được sắp xếp theo một trình tự nhất định nào mà chỉ xếp chồng lên nhau như tòa núi non.
Ngoài ra, ở trong tiểu thuyết của Bảo Ninh còn chứa đựng tính chất gây sốc cho người đọc bởi sự bạo hành cùng với cái chết xuyên suốt tác phẩm. Nếu cái chết của cha, dượng Kiên, của Can – lính đào ngũ là cái chết buồn thảm nhất thì cái chết của những người đồng đội của Kiên sẽ là cái chết bi thảm nhất. Cũng có những chất liệu hình ảnh được sử dụng trong tác phẩm mang tính chất sử thi chiến tranh với “mưa”, “thời kỳ bài bạc”, “cánh rừng đại ngàn”, “ma túy hồng ma”, mối quan hệ dị thường giữa những người lính trinh sát ở trong đơn vị của Kiên với những cô gái thủ kho trong rừng già. Cũng có hình ảnh về ngày chiến thắng nhưng lại nặng trĩu dự cảm kinh hoàng.
Có quan điểm cho rằng Nỗi buồn chiến tranh chính là một “tiểu thuyết đen” về chiến tranh, chứa đầy rẫy những hình ảnh kinh hoàng về giải phóng và những mảnh đời của cựu chiến binh vào trong giai đoạn hậu chiến.
Nhưng tôi cho rằng Nỗi buồn chiến tranh là cuốn tiểu thuyết chủ quan hóa triệt để. Những xung đột cơ bản ở trong truyện đều diễn ra với chính nội tâm nhân vật. Mở đầu bằng cảnh mưa đầu tiên sau chiến tranh và cuộc hành trình đi tìm hài cốt những người đồng đội, cùng đó chính là dự cảm về những xung đột cơ bản Kiên sẽ gặp phải trong cuộc đời mình. Những kỷ niệm mà “tới bây giờ một năm đã trôi qua, hay mười năm, hay hai mươi năm nữa vẫn còn rất đau, đau mãi”.
Nỗi buồn chiến tranh thuộc thể loại tiểu thuyết chỉ có duy nhất một nhân vật chính xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. Các nhân vật khác đều là nhân vật phụ, xuất hiện thấp thoáng trong các tình tiết. Kiên là nhân vật chính với ba vai trò. Là người chiến sĩ may mắn sống sót sau chiến tranh của một đơn vị, không thể tự giải thoát khỏi những hồi tưởng về cuộc chiến tranh vừa qua và về những người đồng đội đã mất như một chứng bệnh trầm cảm. Là người đánh mất đi mối tình vô cùng đẹp đẽ của mình. Là người viết tiểu thuyết với ý thức sứ mệnh. Với ba vai trò đó, tiểu thuyết thể hiện được ba nội dung cơ bản: cuộc chiến tranh khốc liệt với vô vàn những sự chết chóc; chiến tranh và sự hủy diệt hạnh phúc ngoài đời thường; ý thức về chuyện viết văn về đề tài chiến tranh và muốn vượt qua truyền thống cũ.
Chính Kiên tự cho rằng bản thân đang nắm giữ thiên mệnh trong giai đoạn hậu chiến, để anh có thể sinh tồn và vượt qua được khoảng thời gian này: Một là tìm lại sau đó phục sinh quá khứ, hai là việc sáng tạo văn chương. Hai thiên mệnh đó phải luôn song song với nhau, cũng giúp cho bạn đọc hiểu về chân lý trong chiến tranh và trách nhiệm của những người còn sống sau chiến đấu cùng với ý nghĩa thực sự của việt viết lách.
Với Kiên, một người may mắn được sống sót qua cuộc chiến nghĩa cũng như mang món nợ với người đã khuất, bởi vì họ chết nên anh mới được sống, họ đã hy sinh mạng sống để có thể cứu anh, dành lại thời bình của đất nước, anh cũng đã thú nhận rằng:
“Thực ra thì trong chiến tranh Kiên được hưởng rất nhiều may mắn hơn thời bình, bởi vì trong chiến tranh anh đã may mắn được sống, chiến đấu và trưởng thành lên bên những người đồng chí thật tốt. Tuy nhiên, giá của sự may mắn ấy lại là anh đã lần lượt mất hết đi từng những người bạn, người anh em và người đồng đội chí thiết nhất. Họ đã bị giết ngay trước mắt Kiên hoặc là đã chết ở trong vòng tay anh. Nhiều người đã chết để cứu lấy tính mạng Kiên. Nhiều người đã hy sinh bởi chính lỗi lầm của anh”.
Vì lẽ ấy, Kiên đang sống và gánh vác trách nhiệm phải nói thay cho người đã mất, cho “đồng đội thân yêu và ruột thịt, vô số và vô danh, những liệt sĩ trong lòng nhân, đã làm sáng danh đất nước này và đã làm nên vẻ đẹp tinh thần cho cuộc kháng chiến, để làm cho tiếng nói chung của một thời đại đau thương nhưng lại huy hoàng, những ngày bất hạnh nhưng vẫn chan chứa tình người” để bản thân anh không thể quên lãng họ, không bị sự vô tình của hòa bình thản nhiên nuốt chửng mất. Đó cũng là lẽ sống để cho anh tồn tại, níu kéo anh ở lại cho tới giờ phút này khi tinh thần đã hoàn toàn sụp đổ và cái chết có thể ập tới bất kỳ lúc nào. Vì vậy, với anh “thiên chức văn chương cũng chính là thiên chức cuộc đời”.
Ba tuyến nhân vật được gắn liền với cuộc đời của Kiên bao gồm: người thân (cha mẹ và dượng), những người phụ nữ cùng với những người đồng đội. Phần lớn đều hiện lên trong bóng hình của quá khứ và của hoài niệm, dù không có miêu tả, không có tiểu sử, một số nhân vật thậm chí còn chỉ có lời nói vang vọng ở trong suy nghĩ của Kiên. Trong những tuyến hồi tưởng ấy, hình ảnh về những người đồng đội của anh luôn gắn liền với cái chết để phản ánh tính chất hai mặt của chiến tranh. Bởi chúng gắn liền với sự bạo lực tăm tối, hủy diệt và trà đạp lên con người, khơi dậy sự tàn bạo trong con người cùng sự dửng dưng với cái ác. Vì vậy, vết thương lớn nhất mà chiến tranh đã để lại chính là sự chà đạp lên nhân tính. Về phía khác, chính cái chết lại phản ánh được vẻ đẹp của tình người và vẻ đẹp của sự hi sinh. Điều đó đã được đúc kết trong một chân lý rất đơn giản:
“Những con người xứng đáng hơn ai hết quyền được sống ở trên cõi đời này nhưng đã lẳng lặng chấp nhận quy luật đơn giản của chiến tranh: mình chết thì bạn mình được sống!”
Hình ảnh của người phụ nữ trong hồi tưởng của Kiên chính là ánh sáng cứu rỗi nhưng cũng là nạn nhân của chiến tranh. Tất cả đã tập trung vào trong nhân vật Phương, người phụ nữ xuyên suốt quyển tiểu thuyết. Phương là tình yêu tuổi trẻ và là sức mạnh của Kiên khi đi chiến đấu nhưng Phương cũng là nạn nhân khi cô đã bị làm nhục ngay trong giờ khắc khởi đầu cuộc chiến. Mối tính của họ sẽ mãi mãi là mối tình dang dở với những vết thương được chắp vá không bao giờ lành lại.
“Nỗi buồn chiến tranh” nói về một vấn đề rộng, phản ánh về mức độ nguy hiểm, sát thương cho chính những con người trong thời chiến và sau thời chiến. Đó là nỗi đau không chỉ xuất hiện ở nơi thể xác mà còn in hằn vào trong tâm hồn. Do đó lựa chọn tiểu thuyết sẽ là phù hợp nhất, với quy mô rộng và khả năng chứa nội dung thì chỉ có tiểu thuyết mới có thể giúp nhà văn giãi bày được những dụng ý nghệ thuật trong tác phẩm. Từ đó thể hiện nên một câu chuyện phảng phất nỗi buồn, suy tư và đau đớn của các nhân vật và sự tàn phá kinh khủng của chiến tranh. Sự hi sinh của người lính cùng một tình yêu tan vỡ, nhân phẩm của phụ nữ bị chà đạp đã được gợi tả vô cùng rõ nét trong từng trang, từng câu và từng chữ của bộ truyện.
Thông qua đoạn trích, ta có thể thấy rằng ý nghĩa của sự nhớ lại là một phần không thể nào thiếu được trong cuộc sống của mỗi con người. Những kỉ niệm về người mình yêu quý cùng những trải nghiệm đáng nhớ và những thành tựu đã đạt được đều là những điểm sáng tạo đa màu sắc và ý nghĩa của cuộc sống. Nhớ lại quá khứ cũng chính là một nguồn động viên và sức mạnh khi ta phải đối mặt với những khó khăn.
4. Phân tích những chi tiết ám ảnh trong nỗi buồn chiến tranh
Kể từ năm 1969 khi những tác phẩm văn học dần được đổi mới, hình tượng chiến tranh và con người cũng đã được nhìn nhận dưới góc nhìn khác. Chiến tranh đã được soi chiếu đa chiều, đặc biệt là khai thác sâu hơn vào mặt trái và mặt tối bị vùi lấp. Nỗi buồn chiến tranh của tác giả Bảo Ninh ra đời cho ta cảm nhận cách nhìn vô cùng mới lạ về đề tài này.
Nhân vật trong tiểu thuyết là một trong những người ở trong cuộc đang nói về thời cuộc, nói về chiến tranh, những trải nghiệm và cảm xúc của họ một cách sinh động. Có thể nói rằng bộ tiểu thuyết này đã tạo nên một cú hích dữ dội vào những năm 90 của thế kỷ XX khi được trao giải thưởng danh giá của Hội nhà văn và nhận được khá nhiều tranh cãi cũng như phản ứng trái chiều. Dù vậy, công nhận giải thưởng hay không, ai cũng ngầm thừa nhận rằng Nỗi buồn chiến tranh đã bàn luận một cách hết sức sâu sắc về nỗi đau và thân phận con người.
Ngay từ nhan đề của tác phẩm đã là một tín hiệu và là nỗi đau, là nỗi ám ảnh kinh hoàng trong toàn bộ truyện. Lớn hơn cả nỗi đau thể xác, những nhân vật trong truyện phải hứng chịu cả nỗi đau về tinh thần quá lớn, là bi kịch của hậu chiến.
Chiến tranh hiện ra với tất cả sự tàn khốc, bi thảm và ghê rợn nhất. Ở đó có cảnh đói rét: “… Mùa thu não nề, lê thê, ê ẩm… khổ sở vì đói, vì sốt rét triền miên, thối hết máu, vì quần áo bục nát tả tơi và những lở loét khắp người như phong hủi, cả trung đoàn chẳng còn ai ra hồn. Mặt mày ai nấy như lên rêu, ủ dột, yếm thế, đời sống mục ra”… Rồi “bệnh đào ngũ tràn lan khắp trung đội, chẳng khác nào những cơn ói mửa, không thể chắn giữ, ngăn bắt nổi…”.
Mặt tối của chiến tranh được tô điểm kết hợp với sự man rợ của cảnh rừng núi đại ngàn. Núi rừng như đồng lõa với chiến tranh tàn khốc khiến cho chúng có tác động kép, ảnh hưởng tới đời sống và tâm lý của người lính chiến đấu. Có ba chi tiết khiến cho người ta phải ám ảnh khi xem bộ truyện này:
Đầu tiên, hình ảnh người – vượn mà người lính đã bị bắn nhầm: “khi ngã ra, cạo sạch bộ lông thì hóa ra: con vật hiện nguyên hình là một mụ đàn bà béo xệ, da sần lở, nửa xám, nửa trắng hếu, cặp mắt trợn ngược… Cả trung đội thất kinh, rú lên, ù té, quẳng tiệt nồi niêu, dao kéo…”. Đọc đến đây có lẽ ai cũng cảm thấy ám ảnh khi nghĩ về hình ảnh này, khi chiến tranh tàn khốc, người ta không thể phân biệt được người và con vật, để rồi khi đã giết một con “vượn” và sau đó định làm thịt, họ mới nhận ra đó là con người bằng xương bằng thịt thì là ai cũng đều phải kinh sợ. Điều này tạo ra một cảm giác rất ám ảnh và đau đớn về sự mất mát và hậu quả không thể nào phục hồi trong tâm hồn của họ.
Hình ảnh thứ hai khiến cho người ta ghê sợ chính là chi tiết về loài hoa ưa hút máu người tử trận. Và đến lượt những đồng đội của người tử trận còn sống sót, lại thích ngửi và say hút hoa hồng ma: “chỉ sau vài hơi rất mạnh là đã lặng lẽ xiêu lịm đi như tà khói mong mênh. Có thể nhờ khói hoa hồng ma mà quên mọi nông nổi đời lính, quên đói khổ, chết chóc, quên béng ngày mai… Đồng đội của Kiên mỗi người mỗi kiểu say sưa, mơ màng, trong khói hồng ma”. Những hình ảnh ấy không chỉ là cảnh tượng vật lý mà còn phản ánh về sự tàn bạo và đau đớn tinh thần mà chiến tranh đã mang lại cho con người.
Chi tiết thứ ba chính là tiếng hú ghê rợn của rừng núi hoang vắng. Có tiếng kêu gọi bạn tình của muông thú và cũng có tiếng hú dài của những bóng ma hoặc tiếng cười điên dại.
Tất cả những chi tiết ấy đã được Bảo Ninh sử dụng hết sức tài tình nhằm truyền đạt và vẽ nên một bức tranh vô cùng chân thực và đau lòng về những mặt tối của chiến tranh. Nhà văn đã thể hiện quá xuất sắc đề tài hậu chiến, khiến cho người đọc có thể cảm nhận rõ ràng về những hậu quả đau đớn mà chiến tranh đã để lại không chỉ trên cơ thể mà còn ở trong tâm hồn con người.
PAS VUIHOC – GIẢI PHÁP ÔN LUYỆN CÁ NHÂN HÓA
Khóa học online ĐẦU TIÊN VÀ DUY NHẤT:
⭐ Xây dựng lộ trình học từ mất gốc đến 27+
⭐ Chọn thầy cô, lớp, môn học theo sở thích
⭐ Tương tác trực tiếp hai chiều cùng thầy cô
⭐ Học đi học lại đến khi nào hiểu bài thì thôi
⭐ Rèn tips tricks giúp tăng tốc thời gian làm đề
⭐ Tặng full bộ tài liệu độc quyền trong quá trình học tập
Đăng ký học thử miễn phí ngay!!
Bài viết phía trên là bài phân tích hình tượng nhân vật trong nỗi buồn chiến tranh. Những bài viết tham khảo phía trên đã giúp chúng ta hình dung được sự đáng sợ của chiến tranh, đồng thời thể hiện những vấn đề nổi bật thời ấy như sự hy sinh cao cả của người lính, tình yêu tan vỡ và nhân phẩm của phụ nữ bị chà đạp.
Ngoài các bài phân tích hình tượng nhân vật trong nỗi buồn chiến tranh, các em hãy suy nghĩ xem phần kiến thức của môn học nào cần bổ sung rồi sau đó truy cập vào website chính thức của VUIHOC để có thể đăng ký cho mình khoá học một cách nhanh chóng nhất để được các thầy cô giáo giỏi chuyên môn và nhiệt huyết của VUIHOC giải đáp những thắc mắc thường thấy trong quá trình học tập.